TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap II C)

Friday, December 16, 2005

Tệp 16 - Tập II Blog C
(PHÂN ĐOẠN 8, TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


TRẦN XUÂN AN

CUỘC CHIẾN NGOẠI GIAO
VÀ NGOẠI THƯƠNG


Truyện kí thứ tám
(phân đoạn 8)

20

De Champeaux tức giận đi lui đi tới trong văn phòng ở Sứ quán Pháp, bên hữu ngạn dòng sông Hương. Qua cửa sổ, y nhìn thấy Nha Thương bạc bên kia sông. Xa hơn một chút, phía sau, là kinh thành Huế. Y tự bảo, không thể đến nơi này để rồi rời khỏi với chức hàm cũ. Ngoài ra, y thấy cần phải kiếm chác một vài huân chương, bội tinh. Nhưng để lập được một thành tích thực dân nào đó, De Champeaux thấy không dễ dàng chút nào! Y cảm thấy căm hận quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường tưởng như có thể ra lệnh bắn ngay một quả đại bác qua Nha Thương bạc bên kia sông. Nhưng làm gì y có đại bác, ở đây, lúc này!
De Champeaux từng là một phái viên chính thức đầu tiên của Pháp ở Hải Dương, nhậm chức sau phái viên tạm thời trước đó, là Turc (127). Từ lúc ấy, y cảm thấy quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường, vốn là một người cứng rắn trong vẻ mềm dẻo, ngày càng gây khó khăn thêm cho y và những phái viên Pháp khác.
Từ ngày 01.10.1880 (27.8 Canh thìn, năm Tự Đức thứ ba mươi ba) đến hôm nay, sau cái Tết Nguyên đán của người Đại Nam đã một tuần lễ, De Champeaux vẫn chưa làm được trò trống gì, cũng như Rheinart, Philastre, hai khâm sứ trước y. Hôm qua, y lại mới tiếp quan Thương bạc và các tham biện, tư vụ Nha Thương bạc. Họ đến thăm y theo phép xã giao của người Việt vào dịp Tết, cho dù theo tục lệ, ngày mùng bảy lịch Nam, là đã hạ nêu. Quan Thương bạc vẫn điềm đạm, ung dung và vẫn với nụ cười mỉm rất tự tin, báo cho y biết, ngay từ trước Tết Nguyên đán Tân tị (1881), ông đã thôi giữ chức đại thần kiêm quản Nha Thương bạc, một chức tương đương bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp.
Ban đầu, khi nghe tin ấy, y hả hê trong bụng, thấy sự vận động của y vào Trần Tiễn Thành đã có kết quả. Y vận động Trần Tiễn Thành, một quan lớn của triều đình, để Trần Tiễn Thành tác động lên vua Tự Đức, giúp y truất Nguyễn Văn Tường khỏi Nha Thương bạc. Nhưng vẻ ung dung, cái cười mỉm tự tin, không có vẻ gì bực bội, đau xót của một người bị truất chức ở Nguyễn Văn Tường, khiến De Champeaux thật sự bị hẫng. Đó là cảm giác ngày hôm qua. Bây giờ, càng ngẫm nghĩ, y càng cảm thấy tức giận, tức giận tưởng có thể ném vỡ tất cả những gì hiện có trong văn phòng này, ngay lúc này.
De Champeaux cứ đi lui đi tới trong văn phòng, lại cảm thấy mình như một con thú bị nhốt trong văn phòng này, Sứ quán này!
Sau một lúc rất lâu, thấy đã đỡ bực tức và đôi chân đã mỏi, De Champeaux đến ngồi sau bàn viết, đốt một điếu thuốc, lặng lẽ hít vào rồi từ từ nhả khói.
De Champeaux bình tĩnh nghĩ ngợi. Y thấy, dẫu sao việc làm sức ép vào Trần Tiễn Thành khiến Nguyễn Văn Tường bị buộc từ chức, cũng rất có lợi cho y. Viên quan Đại Nam nào kế nhiệm cũng sẽ không gây khó khăn nhiều cho Sứ quán Pháp bằng Nguyễn Văn Tường. Việc vận động để Nguyễn Văn Tường bị truất, không ngờ lại dễ thành công đến vậy! Y lại nghĩ, đúng là Trần Tiễn Thành, viên thượng thư Bộ Binh, đứng đầu cả Viện Cơ mật – Thương bạc lại quá dễ bảo… như Rheinart, Philastre từng nói. Nhưng sao bỗng chốc Trần Tiễn Thành lại tác động lên vua Tự Đức thành công đến vậy? Bốn năm rồi, Rheinart, Philastre chẳng từng vận động như thế hay sao! De Champeaux ngỡ y cứ tiếp tục làm công việc vận động chưa thành và khó thành của hai khâm sứ trước, nào ngờ thành công đến bất ngờ!
De Champeaux mỉm cười, lần này y khoái trá thật, vì y thấy mình thật may mắn, bỗng chốc thừa hưởng được kết quả của hai viên khâm sứ Pháp tiền nhiệm.
De Champeaux định bụng tối nay sẽ viết một văn thư báo cáo thành công đó cho thống đốc Pháp tại Nam Kì hay tin. Y nghĩ, hẳn ông ta vui mừng lắm.
Hết tức giận, lại vừa suy luận ra lẽ, cảm thấy may mắn, lúc này De Champeaux cơ hồ hoàn toàn bình tĩnh lại. Y thấy trước khi viết văn thư báo cáo, cần phải đọc lại xấp bản sao những văn thư của thống đốc, khâm sứ, lãnh sự Pháp đang được lưu trữ tại tủ hồ sơ của Sứ quán này.

“Chính phủ An Nam xem ra lúc này rất nghèo. Vị thượng thư thường hỏi tôi về cách nhanh chóng làm ra tiền. Tại Bắc Kì và ở một số điểm gần bờ biển, có những mỏ than chưa được khai thác, và trong một vài tỉnh ở Bắc Kì, còn có những mỏ kim khí” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 27.8.1875) (270).

“Cho đến nay tôi đã có thể nhận xét thấy là hầu hết các văn kiện của người [Đại] Nam gởi cho chúng ta hoặc nói về chúng ta đều chứa đựng khi thì một sự thiếu sót, khi thì mấy chữ kém nghiêm chỉnh. Có lúc bất ngờ, tôi đã nói lên nhận xét đó, người ta liền cáo lỗi, đổ cho là do sự đãng trí hay quên lãng của người được cử viết ra văn kiện ấy” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 13.9.1875) (270).

“Họ chỉ muốn dung thứ chúng tôi ở đây, xa nơi nhòm ngó, không được ai biết đến, không được ai nhìn thấy quốc kì” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 09.10. 1875) (271).

“Sau cùng, người ta mạ lị chúng tôi trong các văn kiện chính thức. Nay thì chính nhà vua đã làm gương, và mạ lị thậm tệ nhất” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 09.10.1875) (271).

“Đối với tôi, tôi xin tuyên bố là tuyệt đối không còn giải pháp nào ngoài việc dùng võ lực”… […] … “Mọi liên minh với chính phủ [Đại Nam] này đều không thể được” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 09.10.1875) (271).

“Các thương lái (?) người Hoa đã làm một thứ tiền giả bắt chước tiền đồng của người [Đại] Nam. Họ cho nhập vào đây một số tiền giả khá lớn. Với tiền giả đó, họ mua các thứ hàng để xuất khẩu. Hơn nữa, họ còn mua vét tất cả số lượng bạc mà họ có thể mua” (Kergaradec, gửi thống đốc Nam Kì, từ Hải Phòng, 19.8.1877) (272).

“Tôi nghe nói nhiều người sẽ rất sung sướng khi thấy ta gây chiến tranh ở Bắc Kì. Họ cho là có thể chiếm giữ xứ này với vài trung đội. Tôi tin chắc rằng không thể giữ nổi với mười ngàn binh lính và rằng người Bắc Kì sẽ không chịu phục quyền ta hơn chính phủ của bản thân họ” (Philastre, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 11.1878) (273).

“… Nếu Bắc Kì được coi như một quốc gia thì tôi thấy thật ít cơ may để trở thành một quốc gia thanh bình và thịnh vượng như Nam Kì” (Philastre, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 11.1878) (273).

“Bản hiệp định mà chúng ta đã kí kết không cho phép chúng ta, nếu không phải là lừa đảo, dây mình vào những âm mưu chống lại chính quyền [Đại Nam] hiện tại. Vả lại hoạt động của chúng ta sẽ bị tiết lộ trước khi thi hành. Thế là có thể làm cho mọi sự quay lại chống với ý muốn của chúng ta…” (Philastre, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 11.1878) (273).

“… Như tôi đã viết cho ông Turc (lãnh sự Hải Phòng) là sự can thiệp [“” quân sự] chỉ làm cho chúng ta thêm đáng ghét và ô nhục. Sau nữa, tôi xin thêm rằng, can thiệp [“” quân sự] có lẽ sẽ làm chậm lui sự tiến bộ đang tỏ ra thật cần thiết; và [chỉ nên] thực hiện hoặc bằng cách mạng [:đảo chính] hoặc bằng cải tiến, tuỳ theo phẩm chất của triều đình…” (Philastre, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 11.1878) (273).

“Thưa thống đốc, trong quyết định của chính phủ An Nam, có lẽ ngài sẽ ngạc nhiên thấy ông thượng thư nói là: “Không hạn chế cũng không giảm giá”… […] Chính phủ này cũng như chính phủ Trung Hoa thường định mức tối đa cho giá gạo, mỗi khi họ buộc phải dùng những biện pháp như thế [để ngăn chặn gạo xuất cảng, để Bắc Kì khỏi rơi vào nạn đói]… […] … Tôi thấy ông thượng thư đã được cuộc (!) [dấu chấm cảm trong ngoặc đơn của Philastre]” (Philastre, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 24.04. 1879) (274).

“Hiện nay nội thành của vua đang đóng cửa không tiếp đại biện của chúng tôi, và tất cả lời nói và trình bày của chúng tôi chỉ đến tai vua qua trung gian một thượng thư Bộ Ngoại giao ít bị nghi ngờ hay thất sủng. Cần phải đòi hỏi sao cho có nghi lễ nghiêm chỉnh cho các buổi triều kiến và sau đó phải buộc chấp nhận nguyên tắc triều kiến riêng lẻ để cho đại diện của Pháp có thể trình bày trực tiếp với vua những sự kiện nghiêm trọng có liên quan đến hai chính phủ, cũng như ở châu Âu một đại diện có thể tiếp kiến với các vị vua của các nước lớn” (Le Myres de Vilers, gửi tổng thống Pháp Grey, tháng 10.1879 [cũng là chỉ thị cho khâm sứ Pháp tại Huế]) (275).

“Tôi cho rằng chúng ta cần dồn tất cả nỗ lực để gián tiếp thúc đẩy chính quyền An Nam từ bỏ ý định của họ. Vì mục đích ấy, xin ông yêu cầu ông Rheinart trình bày cho triều đình Huế biết là, tuy không chính thức phản đối, nước Pháp sẽ nhìn với con mắt thiếu thiện cảm việc cử các sứ bộ sang Bắc Kinh. Rất có thể là nếu viên đại biện của chúng ta phát biểu theo hướng đó với sự kiên quyết và thận trọng cần thiết, [khiến] các thượng thư của Tự Đức sẽ suy nghĩ chín chắn hơn về công việc họ đang chuẩn bị và họ sẽ tiến hành với sự chậm chạp và trì hoãn [vì phải cân nhắc, đắn đo], rốt cuộc sẽ chỉ có lợi cho chúng ta, vì nó sẽ cho phép chúng ta tranh thủ thời gian cho đến khi chúng ta có thể quan tâm một cách nghiêm túc đến việc xem xét lại các hiệp ước năm 1874” (Kergaradec [?], thư gửi thống đốc Nam Kì, 05.6.1880) (276).

“… Người [Đại] Nam tỏ ra cương quyết, thiên lệch, không chịu quan tâm đến những cam kết đã hứa với chúng ta, trong khi lại rất khe khắt đối với những cam kết mà ta đã hứa với họ…” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 18.7.1880) (277).

“… Từ năm 1875 đến 1876, đã hơn mười lần tôi trình bày về sự cần thiết chúng ta phải thiết lập nền bảo hộ. Tôi đã khẩn khoản nhắc lại điều ấy đặc biệt nhân dịp người [Đại] Nam vi phạm điều II của hoà ước, hồi tháng giêng năm 1876, khi họ viết cho thống đốc Anh ở Hương Cảng để xin phái lãnh sự An Nam tới bến cảng này” (Rheinart, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 18.7.1880) (277).

“Tôi phỏng là chỉ cần ba ngàn rưỡi (3.500) quân, kể cả lính trên các tàu hơi nước nhỏ của hạm đội, thì đủ để chinh phục và chiếm giữ Bắc Kì” (Kergaradec, thư gửi thống đốc Nam Kì, 18.10.1880) (278)
.

De Champeaux đứng dậy trong sự bực bội, chiếc ghế y vừa ngồi suýt ngã. Y gọi to như hét một tên lính hầu, bảo pha rượu cho y với một lát chanh.
Theo một thói quen thường thấy ở nhiều người, De Champeaux vừa đi quanh phòng vừa suy nghĩ. Một lát, y đi nhanh đến bàn viết, nơi đang đặt xấp hồ sơ bản sao các phúc trình (văn thư báo cáo trả lời) của các khâm sứ Pháp tiền nhiệm, các lãnh sự tại Hải Dương, Hà Nội, và cả một số đoạn trích phúc trình của các thống đốc Nam Kì về Pháp. Y muốn đọc lại một vài đoạn của Philastre, kẻ chủ trương không áp đặt “nền bảo hộ”, tức là cái ách đô hộ, lên nước Đại Nam này, mà chỉ “thoả hiệp” với triều Nguyễn cầm quyền đương thời, tuy “thoả hiệp” bằng “cách mạng” (thực chất chỉ là đảo chính, thay đổi vị vua trên ngai!) hoặc “cải tiến” (thực chất là làm sức ép, buộc vua Tự Đức phải nhân nhượng, chấp thuận cho Pháp những yêu sách Pháp đưa ra!). De Champeaux đọc đi đọc lại, y hiểu ra, đúng là dân Bắc Kì sẽ chống lại chủ trương của Philastre. Philastre chỉ đến Bắc Kì vỏn vẹn chỉ vài tháng sau cái chết của Françis Garnier, hồi cuối năm 1873, một thời điểm không khí rất căng thẳng, sục sôi, sau khi Hà Nội và các tỉnh khác ở Bắc Kì thất thủ, một thời điểm mà ngay cả người Pháp kiểu như Rheinart cũng rất hốt hoảng, thất thế, nhất là khi lệnh trao trả công bố, và phong trào văn thân “sát tả” bùng dậy. Ấn tượng ấy khiến Philastre nghĩ sai lệch về Bắc Kì. Thật ra, De Champeaux nhận thấy, một bộ phận khá lớn dân Bắc Kì thiển cận chủ yếu vẫn muốn lật đổ triều Nguyễn, dời kinh đô về lại Hà Nội, và bản thân dân Đàng Ngoài phải làm chủ Đại Nam từ Nam chí Bắc, hoặc chỉ xứ Bắc Kì của họ. Họ sẵn sàng thoả hiệp với Pháp để lật đổ triều Nguyễn cho bằng được. Nhưng triều Nguyễn lo sợ khả năng đầy nguy cơ ấy, nên vội tranh thủ “kẻ mạnh” là Pháp để “thoả hiệp”. Liệu nhận định này có đúng không: Những kẻ sĩ Đại Nam rất công bằng cho rằng: Chính mâu thuẫn Đàng Trong – Đàng Ngoài đó, trong tình thế đó, đã dẫn đến tình trạng hai Đàng vốn không đoàn kết với nhau, lại càng chia rẽ nhau; hai Đàng vốn chống đối nhau, nhưng đều giành nhau đi tranh thủ lực lượng Pháp ngoại xâm. Sự thể ấy khiến cho cả triều Nguyễn (và Đàng Trong) lẫn bộ phận dân Bắc Kì “phù Lê”, “tả đạo”, bọn câu kết với giặc Cờ (thuộc Đàng Ngoài)… đều đáng ghê tởm. Phải chăng nhận định ấy là đúng? Hãy lấy thực trạng lịch sử để làm cơ sở cho mọi nhận định. Nếu như tình trạng hiện nay, Pháp “bắt tay” với triều Nguyễn và triều Nguyễn cảm thấy rất đau xót, phải “bắt tay” Pháp một cách bất đắc dĩ nhưng vẫn “bắt tay”, thì dân Bắc Kì (“phù Lê”, “tả đạo”, bọn Khách…) đành phải “chống cả triều lẫn Tây”! Nhưng trước 1874, Bắc Kì lại tranh thủ Pháp, Tây Ban Nha, thậm chí cả giặc Cờ để chỉ mỗi một việc nhắm đánh triều Nguyễn, để “xoá ván cờ lịch sử, chơi lại ván khác”! Tình trạng sau 1874, Bắc Kì đang bị hẫng hụt! Nhưng vài năm gần đây, ở Bắc Kì, lại cũng thế! Đã có một lực lượng ở Bắc Kì “phù Lê”, sẵn sàng ăn cánh với Pháp để lật đổ triều Nguyễn, với điều kiện, khi đã thắng, nhà Lê phục hồi, sẽ cùng Pháp định lại thương ước 1874! De Champeaux suốt mấy năm rồi làm lãnh sự thường trú tại Hải Dương, y rất quan tâm đến dân tình Bắc Kì, và y hiểu, bộ phận thiển cận ấy ở Bắc Kì đâm ra “chống cả triều [đình] lẫn Tây” là vì thế: Pháp “bắt tay” với triều Nguyễn. Vả lại, Philastre cũng không hiểu vị trí địa – chính trị: Bắc Kì gần Trung Quốc, một chỗ dựa đáng kể, trong khi Nam Kì quá “cheo leo, trơ trọi”, không biết dựa vào đâu.
Sáu năm nay (1875 – 1881), khi các sở thương chính tại Hải Dương, Hà Nội được thành lập, y không thấy có một lần nào các sở thương chính có lính Pháp đồn trú lại bị tấn công bởi chính những người Bắc Kì! Các đoàn du khảo Pháp cũng không bị dân Bắc Kì tấn công! Hoàn toàn khác với Nam Kì! Dân trong Nam Kì lại chỉ tấn công vào người Pháp, cố đạo Pháp và những tên ngụy tay sai khét tiếng!
De Champeaux không những xem khinh Philastre theo cách đồng sự ganh tị nhau của y, y còn coi thường cả Rheinart. Rheinart không biết một tí chữ Hán, chữ Nôm nào, không hiểu các văn kiện bị viên linh mục hành nhân Nguyễn Hoằng và kí lục Hinh dịch sai, lại hét toáng trong các bản văn thư báo cáo, rằng Nha Thương bạc lẫn hoàng đế triều đình Đại Nam “chơi chữ” để mạ lị, chửi bới nước Pháp ngay ở các văn kiện chính thức. Y không thấy được rằng, một trong những quyền của người yêu nước chân chính là phải vạch trần bản chất của bọn cướp nước, bọn thực dân sỉ nhục dân tộc họ bằng những từ ngữ đích đáng. Nhưng phải đúng nơi, đúng chỗ và không phải kiểu “hàng tôm hàng cá” hoặc “ma-cà-bông” (vagabonds, lưu manh). De Champeaux lại thấy ngược lại, kẻ-cướp-nước-phi-nghĩa như bọn thống đốc, khâm sứ, lãnh sự Pháp lại có quyền chửi rủa, dựng chuyện, bôi nhọ người-yêu-nước-chống-xâm-lược-vốn-muôn-đời-là-thuộc-về-chính-nghĩa!
De Champeaux chả hay hớm gì, nhưng y cứ tưởng y hay hớm lắm! Thật ra, những tên người Pháp chịu sang làm thực dân ở các thuộc địa, chúng đều là những tên không ra gì ở chính quốc Pháp! Nhưng De Champeaux đâu có hiểu điều đó, hoặc có hiểu nhưng những lời tâng bốc, phỉnh gạt của các tên chóp bu tại Paris khiến y tưởng thật rằng, các quân nhân Pháp viễn chinh là anh hùng của nước Pháp!
Tợp một ngụm rượu, không biết mười hay chín ngụm rồi, De Champeaux cảm thấy quá bừng bừng men nồng. Y càng hung hăng hơn lúc bình thường. De Champeaux tự nhủ, dẫu sao y cũng phải kiếm chác được vài cái huân chương, bội tinh, loại “bắc đẩu bội tinh” hay “hiệp sĩ bội tinh”, “tuyên giáo bội tinh” gì đó, và phải được thăng chức hàm. Nếu kiếm được nhiều vàng nữa tại xứ Đại Nam này để rồi về Pháp ăn chơi thả cửa, thả dàn (ràn) thì sướng quá!
Nhưng dẫu sao De Champeaux cũng phải thực hiện nhiệm vụ, một công việc cần phải tiếp tục làm, mà Rheinart mới bàn giao cho y cách đây mấy tháng: triệt hạ uy tín quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường, bằng cách vừa viết mật tâu vu khống, gửi lên vua Tự Đức, vừa giao nhiệm vụ cho các cố đạo Pháp tại Huế, phải cố xúi xiểm giáo dân hoặc đào tạo giáo dân làm giặc miệng. Y bỗng thấy dậy lên trong y nỗi thù hận quan Thương bạc, mối căm thù từ lúc y còn ở Hải Dương với chức trách lãnh sự Pháp. Đó là nỗi thù hận phi đạo lí của bọn kẻ cướp đối với những người bị cướp, phải chống lại chúng.
De Champeaux ngồi vào bàn giấy, cầm lấy bút, lôi ngăn kéo ra lấy vài tờ giấy trắng.
Sau một hồi tìm cách diễn đạt, De Champeaux quyết định viết văn thư báo cáo, với một giọng trịch thượng, lớn lối mà y thấy thích thú, cái thích thú tự hả hê trong nỗi căm hận sâu đậm đối với thượng thư Nguyễn Văn Tường, nhân việc ông cùng một số quan chức Thương bạc khác đến thăm và chúc mừng Tết Nguyên đán theo thông lệ ngoại giao:
“Hôm qua tôi đã tiếp kiến quan Thương bạc. Ông đến báo cho tôi biết là ông đã từ chức thượng thư Ngoại giao… Tôi không ngờ việc vận động nhỏ của tôi chống thượng thư đó lại có kết quả nhanh đến thế… Vì thấy rằng không thể mở rộng các mối quan hệ chính trị nếu cứ phải giao thiệp với quan Thương bạc mãi, tôi đã nghĩ phải buộc ông ta từ chức và thay ông ta bằng một người ít chống đối ảnh hưởng của ta hơn… Quan Thương bạc vẫn còn là thượng thư Bộ Hộ và thứ trưởng Viện Cơ mật. Với tư cách sau, ông vẫn còn có thể chống đối chúng ta. Muốn thoát nạn, ta còn phải đập ông tan tành cả ở phía ấy” (De Champeaux, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 06.02.1881 [mùng tám Tết Nguyên đán tân tị]) (279) .
Viết xong bản phúc trình, De Champeaux bỏ vô phong bì, dán keo lại, đặt vào ngăn kéo. Y định bụng, ngày mai, y sẽ lại xé phong bì đã dán lại để bảo mật ấy, lấy văn thư ra, đọc lại thận cẩn trọng, rồi chữa lại, chép lại, mới bỏ vào phong bì khác, dán thật kĩ, và gửi đi theo đường bưu trạm của riêng Sứ quán Pháp. Y tự nhủ, đoạn y viết phúc trình về việc làm áp lực hạ bệ và đã hạ bệ được Nguyễn Văn Tường (y cứ tưởng thế!), phải là một đoạn sắc nét nhất trong văn thư!
Khoảng vài tháng sau, De Champeaux nghe linh mục thông ngôn Nguyễn Hoằng nói lại, vua Tự Đức rất giận dữ, khi hiểu ra thái độ xấc láo của y. Ngoài ra, y còn biết thêm, vua đã viết một bản dụ, nội dung chủ yếu là phân tích sự phiên dịch sai, và ra quyết định đóng gông Nguyễn Hoằng, sai lính giải linh mục thông ngôn này về quê quán Hà Tĩnh để quản thúc tại quê. Nhưng trong bản dụ đó, còn có những câu phê phán De Champeaux, chính là y, qua việc chỉ trích Nguyễn Hoằng rất gay gắt, về âm mưu vận động của Pháp (với Trần Tiễn Thành, nhà vua không biết) và về giặc miệng “tả đạo”, để hạ bệ Nguyễn Văn Tường:
“Lại còn nói rằng, người nước Pháp rất ghét viên Bạc thần trước là Nguyễn Văn Tường, tất rồi sẽ dùng thế lực cưỡng bách truất thoái để đẩy đi xa; vậy câu nói này là nói thế nào?
Ôi! Người làm tôi ai cũng vì chủ nấy, Nguyễn Văn Tường giúp vì nước nhà, cũng tức như viên sứ Pháp giúp vì nước Pháp, cái đạo làm tôi tất phải như thế, có gì mà đáng ghét? Trước kia viên ấy tuy sung chức ở Thương bạc, cùng với ngày nay tuy đã giải nhiệm, song phàm việc gì đều có quan đại thần hiệp thương bàn rồi tâu lên mới quyết định, viên ấy có thể nào độc đoán để ngăn trở việc? Vả giả sử có thể làm độc đoán thì hạng bề tôi như vậy còn nước nào mà chẳng thích dùng? Tưởng nước Pháp cũng nên ban thưởng để khuyến khích cho những kẻ làm tôi trong thiên hạ và để gương đời sau vậy. Như Hán Cao Tổ phong cho Quý Bố và chém Định Công, Tống Thái Tổ phong tặng cho Hàn Thông và truất phế Ngạn Thăng, như thế mới hợp cái đạo trị nước, chứ có khi nào lại xua đuổi bỏ đi; nếu như thế thì bao nhiêu kẻ làm tôi tha thiết vì vua mình cũng đuổi bỏ cả hay sao? Và còn lấy gì mà tỏ sự khuyến trừng? Vậy quyết nhiên không có lẽ ấy.
Vả lại viên cựu sứ thần Lê Na (Rheinart) là người nóng nảy, vậy mà còn biết đạo nghĩa, thấy điều thiện biết phục tòng, đối với người biết giữ lễ, ở đã lâu ngày cũng không có lầm lỗi. Huống viên tham sứ của Pháp hiện nay, thấy viên Nguyễn Thành Ý [tại Gia Định] cũng khen là người biết lễ nghĩa, lại thông đạt lí lẽ. Vậy sao từ khi ông ta nhận chức đến nay cũng chưa lâu gì, mà đã xảy ra nhiều điều kia tiếng nọ như thế? Những việc tai nghe so với với lũ Lê Duy Hinh và Nguyễn Hoằng làm đảo lộn phải trái, nhiều điều mê hoặc, muốn làm li gián tình hoà hiếu của hai nước ta để thoả mãn sự căm hờn riêng mà không biết là hại quốc, hại dân không tệ gì bằng, và điều đó không phải là do viên sứ Pháp đã nói và đã làm, thực đã rõ ràng…
… Gần đây Nguyễn Hoằng lại nhiều lúc ngông càn, nhận văn thư tự đem phiên dịch, không đợi bẩm trình, những loại hành động như thế không nói hết được…” (280)
.
Thật ra, nhà vua khéo nói để tránh khích biến Pháp, và tỏ ra quá vương đạo. Thái độ xấc láo, thù hận của De Champeaux cũng không kém gì Rheinart, mà linh mục hành nhân Nguyễn Hoằng, kí lục Hinh chỉ là tay sai của các tên khâm sứ Pháp ấy. Tất nhiên, nếu linh mục “tả đạo” không thù hận triều Tự Đức thì trên đời này còn ai có lòng thù hận!
“… Nay việc giao thiệp nhiều, mà việc dịch thư từ giao cả cho Nguyễn Hoằng, hoặc nhòm nom thiên vị, tự tiện thêm vào làm hỏng việc. Người nước ta học đã thông nhiều, nên sức cho nhiều người dịch để đối chiếu, so sánh có hợp hay không, chớ chuyên nghe một người. Lại như tên kí lục Hinh dịch chữ Hán sai nhầm nhiều. Quan Thương bạc [(lúc này là Bùi Ân Niên) nên thông] tư cho sứ Pháp đổi người khác” (281) .
Giai đoạn lịch sử đầy uất hận, bi phẫn của Đất nước Đại Nam lại sắp phải bước vào một khúc ngoặt cay đắng, đau thương và quật cường khác (282).

Hết tệp 16
(phân đoạn 8, TRỌN truyện kí thứ 8)

Khởi viết truyện kí thứ tám này
vào lúc khoảng 07 giờ sáng,
ngày 17.11.2002 (13.10 Nh. ngọ, HB.2).
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 8 lúc 16 giờ kém 10 phút,
ngày 30.11.2002 (24.10 Nh. ngọ, HB.2).
Sữa chữa xong vào lúc 15 giờ 24 phút,
ngày 04.12.2002 (01.11 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN


(270) AOM. Aix, B. 22 (1), dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB.KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 295, 109.

(271) AOM. Aix, Amiraux 12774, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 110. Trong văn bản báo cáo này (09.10.1875), Rheinart còn viết: “… Người [Đại] Nam từ chối không thi hành hiệp định (khoản IX); họ đã vi phạm hiệp ước ngay cả bằng cách dùng biện pháp trái với điều đã thoả hiệp…”. Khoản IX của “hoà” ước Giáp tuất 1874 là về tự do truyền bá, theo đạo Thiên Chúa, vốn đã bị trở thành “tả đạo” xâm lược! Nhưng thực dân Pháp cũng không chịu thực hiện điều khoản X về việc triều đình Đại Nam có quyền mở trường dạy chữ Hán, chữ Nôm theo tinh thần dân tộc Việt tại Nam Kì. Điều khoản X này, Nguyễn Văn Tường đã đấu tranh quyết liệt để có thể ghi vào “hoà” ước Giáp tuất 1874. Xin xem lại ở truyện kí thứ bảy (Cưỡng ước “hữu nghị” và thương mại Giáp tuất”). Xem thêm: Dương Kinh Quốc, VN.NSKLS., sđd., tr. 183 – 184: “Thực dân Pháp thiết lập Sở Học chính Nam Kì và đặt chương trình giáo dục hệ Pháp – Việt ở Nam Kì. Chương trình này sử dụng chữ Pháp là chủ yếu; mục đích nhằm loại bỏ dần nền Hán học ở Nam Kì”. Hán học là cách gọi không chính xác, thực chất là nền quốc học Việt Nam lâu đời sử dụng chữ Hán, chữ Nôm.

(272) AOM. Aix, Amiraux 12870, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 281.

(273) AOM. Aix, Amiraux 12865 (2), dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 120 – 121.

(274) AOM. Aix, Amiraux 12873, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 279.

(275) NNBCĐH (BAVH.), Delvaux, bài đã dẫn, tập III (1916), sđd., 1997, tr. 39 – 40.

(276) H. Gordier trích dẫn, Yoshiharu Tsuboi dẫn lại với ghi chú về xuất xứ của tư liệu, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 136.

(277) AOM. Aix, Amiraux 12906, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 111.

(278) AOM. Aix, Amiraux 13208, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 116. Xem thêm: + “Một thương nhân Hoa tên là Châu Thin Muc xin phép khai thác trong hai mươi tám năm một mỏ than nằm trong tỉnh Quảng Nam với số tiền tổng cộng là 190.000 quan tiền trả cho công quỹ” (De Champeaux [?], về mỏ than Nông Sơn tại Quảng Nam, ngày 12.03.1881 (Theo Yoshiharu Tsuboi, việc triều đình Tự Đức cho một người Hoa lãnh trưng như trên đã dẫn “… làm cho các đại diện Pháp phải tức giận vì họ vốn thấy đó là một khu vực mở ra cho quyền lợi Pháp. Sự tức giận đó đã biến thành xung đột vào cuối năm 1880…”) [AOM. Aix, Amiraux 12 / 21, dẫn theo, NĐNĐDVP. & TH., sđd., 1993, tr. 296]. ++ “Tôi tiên liệu là, chỉ ít lâu nữa, chúng ta sẽ buộc phải chiếm cứ thành Hà Nội và giữ việc cai trị thành phố cùng vùng ngoại ô…” (Le Myres de Vilers, gửi bộ trưởng Thương mại và Thuộc địa Pháp Rouvier, 21.12.1881 [cũng là y kiến chỉ đạo cho khâm sứ Pháp tại Huế]) [Tsuboi dẫn theo G. Taboulet, NĐNĐDVP. & TH., sđd., 1993, tr. 113]. +++ “Thật quá muộn để có một quyết định. Chúng ta đã để các hầm mỏ ở Quảng Nam rơi vào tay người Hoa. Chúng ta đã đặt yêu cầu với Huế cho hoãn lại một năm rưỡi cái quyết định tai hại đó, nhưng vì chúng ta tỏ ra lơ là luôn mãi, nên các kẻ cạnh tranh với ta đã thắng cuộc” (De Champeaux, gửi thống đốc Nam Kì, từ Huế, 10.02.1883) [AOM. Aix, Amiraux 12972, dẫn theo NĐNĐDVP. & TH., sđd., 1993, tr. 296].

(279) AOM. Aix, Amiraux 12923, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. &TH., UB. KHXH.TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 270.

(280) TVTĐ., tập 2, 1996, tr. 174 – 178.

(281) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 15.

(282) Khi chúng tôi viết đến những đoạn cuối của truyện kí thứ tám này, các báo đưa tin, GS. Trần Văn Giàu vừa được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động (buổi lễ tổ chức vào ngày 29.11.2002). Tôi sực nhớ trên tạp chí Xưa & Nay, số 29, tháng 7. 1996, GS. Nguyễn Văn Kiệm đã viết trong bài “Ghi nhận về cuộc hội thảo khoa học: Nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường [20.6.1996]” như sau: “GS. Trần Văn Giàu bày tỏ sự xúc động khi nhìn bức ảnh chụp Nguyễn Văn Tường nằm trên giường bệnh ở Tahiti, và tuyên bố từ bỏ những ý kiến đánh giá trước đây của mình về nhân vật lịch sử này, và kể từ nay thừa nhận Nguyễn Văn Tường là một trong số những đại quan yêu nước khác của triều đình Huế” . Nói rõ hơn, trong cuốn “Chống xâm lăng” (Nxb. Xây Dựng, Hà Nội, 1959), GS. Trần Văn Giàu vẫn khẳng định Nguyễn Văn Tường là nhà yêu nước… Tuy vậy, trong điều kiện bấy giờ, theo tôi nghĩ (trên cơ sở lời tự giới thiệu của GS. đầu bộ sách “Chống xâm lăng”), có lẽ do thiếu tư liệu, không những GS. bị “nhiễm độc” bởi sách báo thực dân cố đạo, thực dân viễn chinh, cai trị, lại bị chi phối bởi quan điểm mao-ít (maoisme) và chiết trung, nên GS. đã đồng thời phê phán Nguyễn Văn Tường không chủ chiến quyết liệt, đã đầu hàng sau cuộc Kinh đô quật khởi (05.7.1885) một cách hết sức thô bạo và ác ý. Mặt khác, GS. không hề đếm xỉa gì đến những tư liệu gốc của Quốc sử quán triều Nguyễn (ngoài một số đoạn trích trong cuốn sách có tên là “Dương sự thuỷ mạt”)! Đến tháng sáu 1996, GS. đã phủ chính những khía cạnh phê phán thô bạo, ác ý đó, đồng thời tiếp tục khẳng định các hoạt động cũng như tư tưởng yêu nước của Nguyễn Văn Tường. Tuy nhiên, chúng tôi lại thấy vào năm 2001, Nxb. Tp. HCM. lại tái bản bộ sách “Chống xâm lăng” của GS. mà không hề sửa chữa! Do GS. hay do Nxb.? Vì vậy, tôi đã trích dẫn “Chống xâm lăng” với những ý kiến phê bình xen kẽ của tôi, theo hình thức đọc và bình chú, như một cách đối thoại với GS. Trần Văn Giàu. Tôi cũng đã gửi đến tận nhà riêng của GS.. Trong đó, vấn đề tôi nêu ra không chỉ riêng Nguyễn Văn Tường, mà còn đôi nét về triều Nguyễn (tôi chỉ giới hạn từ 1824 đến 1886), đặc biệt là triều Tự Đức, vốn là đối tượng căm thù của thực dân, “tả đạo”, lại còn là đối tượng đả phong (đánh phong kiến) của một thời ấu trĩ “tả” khuynh nữa! Và tôi đã đưa những trang ấy vào cuốn sách của mình: “Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’ ”, bản in vi tính, 2002 (chưa có giấy phép, điều kiện xuất bản rộng rãi). Đó chỉ là một vấn đề thuần tuý thuộc về sử học, lại là sử học về một giai đoạn đã cách đây hơn một thế kỉ. Tôi thường nghĩ: Không một ai không từng phạm sai sót nào, kể cả danh nhân, anh hùng chiến đấu và anh hùng lao động từ xưa đến nay, và không một ai có quyền tự cho bản thân cá nhân mình là đại diện tiêu biểu cho một triều đại, một chế độ. Nói trắng ra, tôi mạn phép đối thoại, phản biện với GS. về điểm này hay điểm nọ, trong sự giới hạn vấn đề, không có nghĩa là phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta, một chế độ đã có công rất lớn trong việc đánh bại những nước thực dân, đế quốc, bành trướng hung hãn nhất trên thế giới: Pháp, Mỹ, bá quyền Trung Quốc (có thể kể cả việc góp phần tiêu diệt phát xít Nhật). Bản thân tôi rất sợ những quy chụp ấu trĩ kiểu đó, mặc dù số lượng bản in vi tính của cuốn sách là rất ít, chỉ gửi ở một số bà con, bạn bè thân thiết, các nhà nghiên cứu sử học và các cơ quan xuất bản. Mỗi đầu sách chỉ công bố vỏn vẹn 10 bản sao chụp (photocopy), con số rất đáng buồn đau và buồn cười trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay! Bởi lẽ, tôi không dám vi phạm quy chế xuất bản. Dẫu sao, cũng xin minh định như thế, bởi trong thực tế, một bản cũng đã đủ bị gây khó dễ bởi những kẻ có chức quyền nhưng ấu trĩ. Đó là chưa kể những “hằn học” của bọn “tả đạo”, không phải là giáo dân Thiên Chúa giáo lương thiện! Với sự hướng đến tinh thần dân chủ đích thực trong học thuật (phê phán thói học phiệt), xin thưa rõ với GS. một lần nữa, và như đã nói, xin một lần nữa minh định như vậy. Kính mong được chỉ giáo thêm (*).


CHÚ THÍCH CẦN NHẤN MẠNH:

1. Từ tháng 9.1885 đến tháng 8.1945, suốt sáu mươi năm ấy (ít ra là hai thế hệ), Đất nước ta và triều đình Huế hoàn toàn bị nô lệ dưới ách thực dân Pháp, mâu thuẫn Đàng Trong – Đàng Ngoài đã tự hoá giải trước nỗi đau chung. Hơn nữa, do sự thay đổi chế độ chính trị ở Trung Quốc, từ thời điểm cuộc cách mạng 1911 do Tôn Văn lãnh đạo nổ ra, rồi sau đó, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, được thành lập vào năm 1949, nên Bắc Kì trở thành một địa phận có vị trí địa – chính trị tốt cho cách mạng nước ta: Bắc Kì giáp giới với Trung Quốc, có đường sắt liên thông đến nước Nga xô-viết. Nga xô-viết đã là thành trì của cách mạng vô sản, cách mạng ý thức hệ trên thế giới. Và tiếp đến, hiệp định Genève 20.7.1954 lại là nhân tố tạo sự hoán chuyển Nam – Bắc… Vai trò lịch sử Nam – Bắc đã hoàn toàn đảo ngược! Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản 2001 (đã chỉnh lí, bổ sung từ bản 1997) (**). [Chú thích (6), trang 20].

2. Trên quan điểm cụ thể – lịch sử, không thể chấp nhận những chi tiết miêu tả nhân vật, không gian, thời gian (ngoại hình, bối cảnh…) một cách phi lịch sử, tôi đã cố gắng tái hiện nhân vật lịch sử với trang phục, nhân sinh quan, thế giới quan của thời đại họ sống và hành xử, cũng không quên lưu tâm đến những nét tính cách riêng, hoàn cảnh riêng của từng nhân vật, đồng thời, cố gắng tái hiện sự kiện lịch sử đúng như không – thời gian mà từng sự kiện đã diễn ra. Đặc biệt, trong khía cạnh ngôn từ của các nhân vật, tôi cũng không thể không chú ý đến tính không – thời gian cụ thể, nhất định (ngôn từ đối thoại, suy tư thuộc nửa sau thế kỉ XIX ở nước ta…). Điều đó không có nghĩa là người viết thuộc hệ ý thức phong kiến Đại Nam trong giai đoạn từ 1824 đến 1886! Ý thức tái hiện lịch sử phong kiến trong tác phẩm truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử này hoàn toàn khác biệt với ý hướng phục hồi chế độ phong kiến lỗi thời trong thực tại hiện nay! Tôi cũng cố gắng không đả phong (đánh phong kiến) một cách ác tâm, bằng cách bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo, hoặc cường điệu quá mức những gì lỗi thời của thực trạng phong kiến nửa sau thế kỉ XIX ở nước ta nhằm mục đích bôi nhọ với các thủ pháp tuyên giáo ấu trĩ, hạ cấp, thiếu trung thực nên cũng thiếu sức thuyết phục, không có giá trị lâu dài.

Soạn xong phần chú thích
vào lúc 19 giờ 24 phút,
ngày 06.12. 2002 (03.11 Nh. ngọ HB.2).


TRẦN XUÂN AN

Cước chú của chú thích (282) & Chú thích cần nhấn mạnh 1:

(*) Ghi chú trong bản thảo (khi chưa được xuất bản bộ sách này).
(**) Cuốn tiểu thuyết ”Muà hè bên sông”, tôi (TXA.) đã sửa chữa, bổ sung lần thứ ba vào năm 2003, có nhan đề phụ là ”Nỗi đau hậu chiến”, gọi là bản 2003 (b.2003).


MỤC LỤC

1. Truyện kí thứ bảy: Cưỡng ước “hữu nghị” và cưỡng ước thương mại Giáp tuất 1874.
2. Truyện kí thứ tám: Cuộc chiến ngoại giao và ngoại thương.

Mục lục.
Danh mục sách của tác giả.


Ghi chú để kỉ niệm:
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI
ĐÃ ĐƯỢC GỬI VÀ TẶNG bản thảo SÁCH NÀY:

1. Thầy Trần Viết Ngạc
2. Chú Nguyễn Văn An (bà con)
3. Chú Nguyễn Văn Toàn (bà con) [tập I]
4. Anh Nguyễn Hạnh và Tạp chí Xưa & Nay
5. Bạn Inrasara và bạn Trần Tiến Dũng (chung một cuốn)
6. Chú Nguyễn Văn Phước (bà con)
7. Bạn Võ Văn Tám (Võ Nguyên ở Bình Thuận) [tập I]
8. Bạn Lê Phước Sinh (TT. Ngoại ngữ Đông Á TP. HCM.)
9. Ông Dương Trung Quốc và TS. Đào Hùng (chung một cuốn)
10. Ông Lê Văn Thuyên (Tạp chí Huế Xưa & Nay) và TS. Đỗ Bang (chung một cuốn)
+++ Và một số bài ở dạng bản thảo vi tính, cỡ giấy A 4, gửi ở các toà soạn Văn Nghệ TP. HCM., Sông Hương, Cửa Việt…

++++ Ghi chú: Anh Nguyễn Hạnh có đưa cho ông TRIỀU ANH (Việt kiều Bỉ, tác giả cuốn “Những trang sử cuối cùng về chữ Hán – Nôm”, Nxb. Đồng Nai, 1999) đọc.

11. Nhà thơ Nguyễn Phan Hách (Nxb. Hội Nhà văn).
12. Bạn Nguyễn Công Bình (Nxb. Thanh Niên).

TP.HCM., tháng 12 – 2002 (năm thứ 2 công nguyên Hòa Bình : HB5)
Trân trọng, chân thành cảm ơn quý vị và bạn bè có ghi tên trong danh sách trên.
Tác giả,

TXA.

Ghi chú thêm:
◘ Thay vì viết tay trên giấy rồi mới xếp chữ như các cuốn trước, đây là lần đầu tiên tôi thử viết trên bàn phím và màn hình máy vi tính. Tập I đã viết xong, tập II này cũng được tiếp tục với cách thức như vậy.

Khởi viết từ 08 giờ 39 phút, ngày 25.10.2002
(20.9 Nhâm ngọ, năm thứ hai công nguyên Hoà Bình).

◘ Bản tự nhuận sắc (02.2004, font VNI-Centur) này, có thể nói là hoàn toàn không khác gì bản sơ thảo hoàn chỉnh (2002 – 2003, font VNI-Times), trừ một vài câu chữ được trau chuốt lại và dăm chi tiết nhỏ cần chỉnh lí.

18 giờ 10 phút ngày 23.02.HB.4
(04.02 Giáp thân HB.4).

◘ Đổi font, sửa lỗi sắp chữ và bổ sung một vài chi tiết (như bản dụ về binh lính xuất thân từ Bắc Kì…): 13.02.HB.4 (23.01. Giáp thân HB.4)

TXA.

In ở bìa 4


“… Bộ truyện kí – khảo cứu tư liệu lịch sử này cũng thể hiện ước mong: Mỗi người chúng ta tự đối diện với chính mình. Hình như đấy là nỗi ước mong của lịch sử với biết bao xương máu! Tôi cảm nhận nỗi ước mong ấy khi nghiên cứu và trong quá trình viết.
Điều cuối cùng cũng là đầu tiên trong cuốn tiểu thuyết tư liệu này vẫn là: Đoàn kết dân tộc và đoàn kết nhân loại.
Nếu bộ truyện kí – khảo cứu tư liệu lịch sử này tình cờ được để mắt đến, hi vọng người đọc, gồm cả những người Pháp, người Hoa, người Âu Mỹ nói chung, gồm cả những tu sĩ, giáo dân Thiên Chúa giáo tại Việt Nam và trên mọi đất nước, sẽ không trút giận vào tác giả, do sự thật lịch sử được cố gắng tái hiện một cách trung thực nhất…”
.

(trích Vài lời thưa trước của tác giả).


HẾT TỆP 16
(PHÂN ĐOẠN 8,
trọn TRUYỆN KÍ THỨ 8)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”

H Ế T T Ậ P II
(gồm 3 blogs : II A, II B, II C)



Ghi chú về tác giả:
Trần Xuân An
(có bài kí bút danh: Trần Ngôn Sử)
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).

1971, cùng bạn bè chủ trương tập san Đất Vàng, trong giới học sinh ở Tam Kỳ (Quảng Nam – Đà Nẵng), với bút hiệu Huyên Đình (Người Mẹ).
1973, “Tiếng chuông xưa” , bài thơ lãng mạn đầu tiên in trên Tuổi Ngọc.
1975, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm” của báo Văn nghệ Giải phóng.
1991, giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị.

DANH MỤC
TÁC PHẨM, SOẠN PHẨM, BIÊN KHẢO
CỦA TÁC GIẢ
(tính đến 2005)

Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:

1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/ & … 2a … 2b … 2c …
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/

Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:

13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm

Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:

17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm

Địa chỉ:
71B Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
(cửa hiệu PHAN HUYÊN)
TP. HCM.
ĐT.: 08.8453955
& 0908 803 908
Email: tranxuanan_vn@yahoo.com


TRUY CẬP THÊM CÁC ĐỊA CHỈ WEBs/ BLOGs
(bấm vào LINKs sau đây):

http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/

http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/

http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/

http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/

http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/

http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2c.blogspot.com/

HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
WIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.

NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An



H Ế T T Ậ P II
Xin xem tiếp tập III

Bộ sách “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”
NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HCM.
2004
trọn bộ 4 tập
985 trang sách, cỡ 16 cm x 24 cm
(trong bản đã xuất bản, tạm gác lại một số đọan chú thích).

Tệp 15 - Tập II Blog C
(PHÂN ĐOẠN 7, TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


TRẦN XUÂN AN

CUỘC CHIẾN NGOẠI GIAO
VÀ NGOẠI THƯƠNG


Truyện kí thứ tám
(phân đoạn 7)

18

Nhưng ngoài việc để canh tân Đất nước, “hoà” để làm gì, nếu không để chấn chỉnh, nâng cao năng lực chiến đấu của quân binh? “Chiến rồi mới có thể hoà, “hoà” để thủ, thủ để mưu chiến. Thế mới hợp cơ nghi” . Thượng thư Bộ Hộ, đại thần Viện – Bạc Nguyễn Văn Tường từng xác định như thế.
Trong bốn, năm năm qua, ông phụ trách Bộ Hình rồi Bộ Hộ, kiêm quản Nha Thương bạc, nhưng ở Viện Cơ mật, ông còn phải bao quát tất cả mọi lĩnh vực. Bộ Binh là phần hành chính của Trần Tiễn Thành, nhưng các đại thần mặc dù được sung vào Viện – Bạc hoặc không sung vào đó, đều có thể tham gia góp ý cho Bộ Binh trong những buổi thiết triều, đình nghị. Huống nữa, Nguyễn Văn Tường là thành viên thường xuyên, liên tục ở Viện Cơ mật, ông không thể không quan tâm góp ý về việc chấn chỉnh, nâng cao quân lực để trước sau gì, sớm muộn gì cũng phải chiến đấu với Pháp bằng vũ lực quân sự. Chiến, ấy là tiên quyết và hậu quyết!
Tuy vậy, tranh thủ góp ý với quyền cố vấn, tham mưu là một việc, nhưng trực tiếp đứng ra đề xuất, hình thành chủ trương, kế hoạch thực hiện và đốc thúc triển khai thi hành trong thực tế ở các doanh vệ, quân thứ, tại kinh đô và tại các tỉnh, vẫn tuỳ thuộc vào thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành. Là thượng thư Bộ Binh, ông ta còn là đại thần Viện – Bạc có thâm niên cao nhất, đang ở vị trí số một tại Viện. Hơn nữa, Trần Tiễn Thành là một người rất được vua Tự Đức sủng ái, là vị quan được nhà vua lắng nghe nhất, tin cậy nhất! Đó là một điều thật kì quái! Lắm người đã giải thích sựï sủng ái ấy một cách thần bí!
Nhưng Trần Tiễn Thành đã làm những gì để chấn chỉnh, nâng cao binh lực? Trong hoàn cảnh Đất nước đang bị ngoại xâm, phải chấp nhận “hoà” một cách nhục nhã để lo liệu việc chiến đấu nhằm đuổi cổ bọn cướp nước, không thể không chú tâm vào nhiệm vụ quan trọng bậc nhất ấy. Chỉ có một lần duyệt binh lớn đầu năm Ất hợi (1875), tuy còn theo binh pháp cổ truyền đã lạc hậu, nhưng vẫn đáng kể, ngoài ra, Bộ Binh chưa làm được gì! Trần Tiễn Thành đã mấy lần bị vua nhắc nhở, khiển trách… một cách nương nhẹ!
Tháng tám nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ hai mươi tám, Ất hợi (1875), đã có sự nhắc nhở:
“Vua bảo Bộ Binh rằng: “Hiện nay, việc binh rất là trọng yếu, mà súng ống là đồ dùng cho việc binh trước nhất; nên trước hết phải luyện tập cho đều tinh thạo. Khi cần đến mới mong được việc. Nếu có sai phái, cũng liệu để lại học tập, đâu có thể uỷ cho việc nhiều mà bổ [đi], không luyện tập được” (89) .
Tháng năm nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ hai mươi chín, Bính tí (1876), lại một lần nữa…
“Vua cho là Bộ Binh nhiều việc và đọng lại, vậy thị lang, biện lí chuẩn cho đều đặt thêm cho đủ viên. [Vua] lại cho là chức đại thần không nhỏ [mà đích] thân làm việc nhỏ, huống chi tuổi cao, khí suy, càng nên xét thương, đặc cách chuẩn cho lãnh thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành, từ sau phàm việc ở bộ, việc gì thuộc về thăng, bổ, làm, bỏ, việc chiến trận, việc quân, tất cả, sự thể quan trọng chưa có lệ định, thì đều bày tỏ trước bàn định, đề tên xét tâu, còn phàm có điều lệ phải theo và các việc tư báo tầm thường, đều chuẩn cho các viên thị lang, biện lí ấy, cùng bàn nhau xét mà làm, không phải phiền nhiễu, để được thư nhàn coi xét các việc đình nghị. Và [vua] bảo phải tụ hội tinh thần, mưu sâu, lo xa, mong ngày càng giúp đỡ, cho thành công hiệu lớn”” (250) .
Mãi đến tháng sáu nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi hai, Kỉ mão (1879), phương pháp chế tạo súng đạn vẫn còn quá cũ kĩ, lạc hậu, đành phải đình hoãn, bởi có gắng gượng chế tạo cũng không có hiệu quả cao trên chiến trường, trong việc phòng thủ!
“Hai bộ Binh, Công tâu xin đến tháng giêng sang năm đúc đền [bù vào số bị thiếu] sáu cỗ súng đồng thần uy Phục viễn đại tướng quân.
Vua bảo rằng: “Các hạng súng thiếu rất nhiều, phái đi cũng rộng, tạm hoãn lại để nuôi của và nuôi sức, đợi quan Cơ mật – Thương bạc nghĩ phái người đi học, hoặc thuê được [người am hiểu] phép đúc giản tiện, sẽ làm sau. (Sau vì có việc mà đình chỉ)” (251)
.
Lại một lần nữa, vào tháng chín nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi ba, Canh thìn (1880):
“Vua bảo đình thần rằng: “Bộ Binh việc nhiều, Trần Tiễn Thành gần đây già yếu, sức chẳng theo lòng, làm việc không khỏi chậm trễ, đọng lại. Vả lại, chức việc của đại thần, không [đích] thân làm việc nhỏ. Từ nay, phàm việc ở bộ, các việc quan trọng như: cơ mưu, điều khiển việc quân, việc binh nhung nên làm hay nên bãi, phái quân trừ giặc, mới được trình báo đợi quyết định, làm phiếu luôn dâng lên, còn thì chuyên giao cho bọn tham tri, thị lang, biện lí hội đồng bàn tính cho xong, không để lỡ việc”” (252) .
Bộ Binh như thế đó! Thiếu luyện tập, trễ nãi, trì trệ, và không thấy trang bị vũ khí mới, ngoài số súng ống Pháp trao tặng theo “hoà” ước Giáp tuất 1874. Trách nhiệm chính vẫn là ở thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành. Vua Tự Đức đã dùng người không đúng chỗ, và khốn thay, lại sủng ái một cách lạ lùng, như thể quan hệ vua tôi ấy là cơ duyên thần bí. Vận nước, quả thật, đã đến lúc không sáng, không may? Thật ra, từ năm thứ ba mươi mốt (1878), nhà vua triệu hiệp đốc Tôn Thất Thuyết, “hễ chữa khỏi bệnh thì về kinh [đô]” (253) , nhưng đến tháng sáu, năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879), hiệp đốc họ Tôn Thất vẫn còn bệnh, phải điều trị tại Thanh Hoá, dâng sớ xin làm việc với quan tỉnh Thanh trong khi tĩnh dưỡng. Vả lại, vua cũng còn ngại tính tình nóng nảy của ông: “Tuy có lòng chọn việc, nhưng chứng nóng chưa hết, hãy cho ở lại điều trị” (253) !


19

Thượng thư Nguyễn Văn Tường và tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên Vũ Trọng Bình rất lâu rồi mới có dịp gặp lại nhau, kể từ Quý dậu (1873), hồi họ cùng đảm nhận công việc tiễu phỉ ở phía bắc. Sáng nay, một buổi sáng tháng chín, mùa đã vào đông, nhưng trời đất ở Huế vẫn còn đang rực rỡ nắng. Sau những ngày cuối thu hơi ảm đạm và se lạnh, mấy hôm rồi lại trở về trên kinh đô những màu sắc ngỡ như giữa mùa hè. Trong Tả vu Điện Cần chính, nơi Viện Cơ mật – Thương bạc đặt làm trụ sở, hai người ngồi đối diện ở bộ trường kỉ được chạm trổ, khảm xà cừ rất tinh tế. Giữa họ là chiếc bàn, bên trên là một bộ khay chén trà đã được bưng ra. Hai chén trà xanh toả khói mỏng, thoảng hương lài thơm ngan ngát.
Tổng đốc Tam tuyên Vũ Trọng Bình cũng sắp bước vào tuổi bảy mươi, nhưng trông ông còn rất khoẻ mạnh, lại vẫn rất linh hoạt như ngày nào. Kém hơn mười mấy tuổi, thượng thư Nguyễn Văn Tường đang đúng tuổi năm mươi bảy, tính cả một tuổi trong lòng mẹ. Trong khi chờ vua Tự Đức giá lâm làm việc tại Điện Cần chính, vua sẽ cho thị vệ qua triệu mời tổng đốc và các đại thần Viện – Bạc sang yết kiến, hai người đang ôn lại những năm tháng cũ, bâng khuâng thương tiếc đại tướng quân Đoàn Thọ, lãnh binh Lê Văn Dã, nấm mộ Hoàng Văn Giảng, án sát Lạng Sơn, vốn là người bạn cũ của Nguyễn Văn Tường.
Tổng đốc Vũ Trọng Bình chợt nhớ lại mấy bài thơ năm nào thượng thư Nguyễn Văn Tường viết tặng và hoạ lại thơ ông. Ông khẽ đọc, đủ cho hai người cùng nghe:

Họa Sơn phiên Võ “Tống ngư hàm”
nguyên vận


Tâm tồn quỳ hoắc hướng xuân dương
Bất quản gian tân cửu bị thường
Dục đắc diêm mai điều đỉnh nại
Tầm thường an vấn giới nhi khương

“Áp tải muối ướp cá”

Họa thơ Vũ Trọng Bình

Quỳ dại, hoắc hương, lòng hướng dương
Không nề cay cực, trải bao đường
Muối, mơ muốn được xào trên vạc?
Cải giống gừng? Sao hỏi quá thường! (254)

Kí bang biện quân vụ Vũ

Ưu quốc vị thành song mấn bạch
Tranh thần vô nại nhất thiên thương
Bất tài huống thả phùng đa sự
Ngạnh đoản tiên trường chỉ tự thương.

Gởi bang biện quân vụ họ Võ

Lo nước chưa xong đầu đã bạc
Tranh thời chẳng được, một trời sâu
Không tài lại gặp lúc đa sự
Cành ngắn roi dài chỉ tự đau! (254)

Gửi bang biện quân vụ Vũ Trọng Bình

Chưa xong việc nước, hai đầu bạc
Khó níu ngày trời một sắc xanh!
Cạn trí, huống chi, thời lắm rối
Ngắn dài tự quất vết roi cành!

Lo nước chưa xong, đầu bạc uá
Giành tâm, không nén, trời hoa râm!
Bất tài, lại gặp bời bời việc
Cành ngắn roi dài, tự xót thầm! (254)


Thượng thư Nguyễn Văn Tường nghe cay cay ở khoé mắt. Giọng tổng đốc Vũ Trọng Bình cũng nghèn nghẹn. Nhưng cả hai vị đều cố gượng mỉm cười trong nỗi xúc động khi kỉ niệm cũ chợt sống dậy trong lòng họ.
- Quan tổng đốc hẳn còn nhớ đề đốc Trần Mân (255) chứ?
- Làm sao quên được! Tôi rất buồn khi nghe ông ấy mới mất (255) cách đây không lâu. Cả thị sư Nguyễn Uy (Oai) cũng đã qua đời (256)…
Hai người bạn vong niên ngậm ngùi chìm vào hồi tưởng về một thời trận mạc.
- À, tôi mới gặp lại chưởng vệ Đinh Hội. Ông lão tướng ấy đã trên bảy mươi mấy rồi, vẫn gân guốc lạ. Đúng là con nhà võ! – Tổng đốc Vũ Trọng Bình hơi vui trong giọng nói –. Ông Đinh Hội ấy rất cảm ơn quan thượng Nguyễn Văn Tường, đã cùng Trần Tiễn Thành tâu xin cho ông ta đỡ bị nhà vua giáng phạt (257).
- Ồ, vụ việc có gì đâu! Chẳng qua ông ấy mãi mê suy nghĩ về một trận đánh trong binh thư và đối chiếu trên trận mạc, nên quên bẵng chung quanh, hoá ra thất lễ với nhà vua. Chỉ có thế thôi, có chi đâu!
Một lát sau, sau lời triệu mời trang trọng theo nghi thức của viên quan thị vệ, họ cùng với ba đại thần khác, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Chính, Phạm Thận Duật cùng bước sang chính điện Điện Cần chính, nơi vua Tự Đức đã giá lâm. Những buổi thiết triều thường lệ vẫn được diễn ra ở Điện Cần chính này, và cũng là nơi nhà vua thường mời các đại thần trà nước để bàn luận thêm về quốc sự.
Sau những nghi thức, vua Tự Đức mỉm cười nói:
- Hôm nay trẫm triệu mời tổng đốc Tam tuyên Vũ Trọng Bình đến để đàm đạo thêm. Nhân tiện, cũng mời các đại thần Viện – Bạc để cùng bàn thảo những gì khiến trẫm cùng các ngươi không ăn ngon ngủ yên lâu nay… Nói vậy, không phải là để vừa thêm rối, vừa thêm nặng chuyện, mà chỉ để mong triều thần, biên thần và thiên hạ được thái bình.– Vua Tự Đức hơi trầm lại giọng nói –. Thật lòng, trẫm rất băn khoăn việc ở Bắc Kì. Vũ Trọng Bình, ngươi có thể tâu cho trẫm rõ thêm về việc biên giới phía bắc?
Quan họ Vũ thi lễ và thưa:
- Tâu hoàng thượng, tôi đã tấu trình, dẫu sao, việc biên giới mấy năm nay cũng đỡ hơn rất nhiều so với hồi quan thượng thư Nguyễn Văn Tường chưa đi sứ. Tên Hoàng Sùng Anh, tướng phỉ Cờ vàng, bị bắt sống và bị lăng trì xử tử, quả là rất thoả dạ quân dân. Đó là một đại hoạ được giảm bớt. Tuy vậy, giặc lâu la còn sót lại của hắn không phải chịu yên cho, mặc dù chúng cũng đuối sức lắm rồi. Còn Lý Dương Tài, tên tướng nhà Thanh làm phản với triều Thanh, hắn cũng bị bắt sống, giải về Trung Hoa hồi tháng chín, năm ba mươi hai (1879) (258). Hai việc đó, hoàng thượng và triều đình tuy ở đây nhưng còn rõ hơn tôi. Một việc nữa còn khó, nhưng lâu nay hoàng thượng và triều đình đã có thể đã yên tâm phần nào, đó là bọn phỉ Ông Thất, nguyên là giặc trốn nước Thanh, và bọn phỉ Ông, Đàm, vốn là người Khách trú ở nước ta (259). Những tên này và lâu la của hắn còn hung hăng, nhưng thống đốc họ Hoàng, hiệp đốc Tôn Thất Thuyết sớm muộn gì cũng quét sạch.– Tổng đốc Vũ Trọng Bình nói –. Nhưng tôi tâu trình như vậy thì cũng không có gì mới. Chỉ dám mong là quân binh ta được trang bị súng ống tốt. Có súng ống tốt, việc biên giới không kéo dài đến ngày nay. Đó là điều tôi cảm thấy không thể không nói. Muôn tâu hoàng thượng, lẽ ra, khó khăn, nghèo túng đến mức kho tàng vơi rỗng, cũng phải tìm cách mua cho được súng ống tốt, cử người đi học cho bằng được cách chế tạo súng ống kiểu Tây dương. Muôn tâu, tôi chỉ dám thưa hỏi một điều như vậy.
- Trẫm rất không bằng lòng khi nghe ngươi hỏi vậy! – Vua Tự Đức nén nỗi bực bội –. Ngươi cũng thừa biết nước ta điêu đứng cũng vì thiếu súng ống. Nhưng đào đâu ra, mua ai bán! Bọn bạch tạng Tây dương chỉ bán cho các nước chúng đang chiếm đoạt cách này hay cách khác một vài khẩu súng, vài viên đạn làm màu, làm mè thế thôi. Còn cử người đi học ư? Bọn bạch quỷ lại giấu nghề! Đời thuở nào chúng bán, chúng dạy cho ta để ta đánh lại chúng!
Tổng đốc Vũ Trọng Bình im lặng. Ông biết nhà vua rất dễ nổi cơn thịnh nộ.
- Sao, Vũ Trọng Bình, ngươi không có ý kiến gì nữa sao? Phải chăng ngươi muốn so sánh ta với nước Nhật Bản? Tại sao Nhật Bản học được nghề đóng tàu chiến kiểu Tây dương, luyện quân tập lính theo kiểu Tây với súng Tây, mà ta với Trung Quốc lại không? Có phải ngươi muốn hỏi như thế?
- Bẩm, kẻ bầy tôi cũng có thắc mắc như vậy. Quả thật, hoàng thượng đã thấu lòng kẻ bề tôi, nên cũng không dám ngu muội hỏi như vậy nữa.
- Ngươi bao giờ cũng thế! May là ta đã đọc kĩ bản tấu của ngươi.– Vua Tự Đức nói –. Hôm nay ta muốn các đại thần Viện – Bạc cùng nghe và trả lời cho ta câu hỏi của quan tổng đốc Vũ Trọng Bình! Tại sao ta và Trung Quốc, kể cả Xiêm La, Ấn Độ, lại chịu thua kém Nhật Bản?
- Bẩm, các thượng thư lục bộ, đại thần Viện – Bạc đã trả lời cho thần, rằng nước Nhật chỉ là cục xương khô, trôi nổi trên biển cả, nghèo tài nguyên khoáng sản và nghèo cả nông sản, lại động đất luôn luôn. Do đó, mặc dù bọn bạch quỷ các nước đã nổ súng xâm chiếm Nhật Bản, chúng cũng đã bắt Nhật Bản phải kí mấy “hoà” ước cũng tương tự như ta đã phải kí với Pháp, nhưng chúng cướp Nhật Bản cũng như cướp một ngôi nhà rỗng, không có gì để cướp. Nhật Bản không may mắn về địa lợi, xét về tài nguyên, ruộng đất, địa chấn, hoá ra là cái may lớn. Nhật Bản do vậy, chỉ trở thành cái chỗ đỗ tàu thuyền, cái bàn bàn đạp của Tây dương để chúng tấn công Triều Tiên, Trung Hoa, Đại Nam mà thôi!… Chính Nhật cũng hùa theo Tây dương, đang xâm chiếm Triều Tiên, chia chác của cải cướp được với Nga La Tư, Pháp, Mỹ, Đức, Anh… Nước Nhật Bản đang theo gót Tây dương, làm giàu bằng cách xâm lược, cướp bóc Triều Tiên, Lưu Cầu…
- Thế sao ngươi còn hỏi? Nhưng bây giờ, trẫm mong các đại thần hãy cùng suy nghĩ lại những lời các ngươi và người Hoa nước Thanh đã giải đáp cho nhau. Trẫm rất muốn nghe các ngươi nói. Thử hỏi, những điều Vũ Trọng Bình mới nói có đúng hay không? Hay nước Nhật Bản như Hàn Tín, chịu luồn trôn phiếu mẫu, như Câu Tiễn, chịu nếm phân giặc, thờ giặc… để học nghề đúc súng, đóng tàu Tây dương? Nhật Bản làm đầy tớ Tây dương để cướp nghề Tây dương? – Vua Tự Đức nói –. Chịu nhục mà được như Nhật Bản, trẫm cũng chịu. Nhưng thực sự có phải như vậy không? Nói như thế có xúc phạm lân bang Nhật Bản không? Các ngươi nên nhớ, đây là chuyện cơ mật, chớ tiết lộ! Ta không dại gì để khích biến đối với một nước như nước Nhật Bản, vốn cùng nòi giống da vàng như ta! – Vua Tự Đức hơi bối rối, lại nói –. Hay trong giống nòi da vàng, chỉ một dân tộc Nhật Bản là thông minh chăng? Điều đó không được lịch sử mấy ngàn năm của nước Nhật Bản chứng minh. Người Nhật Bản không thông minh hơn người Trung Hoa, người Đại Nam, người Cao Ly (Triều Tiên); Nhật Bản cũng không thông minh hơn người Ấn Độ, Xiêm La… được! Chẳng lẽ Nhật Bản có phép mầu, bỗng chốc lại trội lên, lại đánh cắp được bí kíp (sách bí truyền) của Tây dương? Trẫm mong các ngươi suy nghĩ.– Vua Tự Đức hình như trút được nỗi tự ái chất chứa trong lòng, vua nói khẽ lại –. Vua tôi nước Nhật Bản sẽ rất giận dữ nếu biết được vua tôi nước ta nói về họ như thế, so sánh họ với các lân bang như vừa rồi. Thế là xúc phạm lắm… Dẫu sao, thế cũng là xúc phạm lắm… Thôi, hãy nhớ rằng, đây là chuyện vua tôi ta bàn cho ra lẽ, xem vua tôi ta có ngu dốt chỗ nào để cùng nhau làm cho sáng tỏ… Và nên nhớ, đây là chuyện cơ mật, tối mật, chớ hé răng tiết lộ mà sinh khích biến với Nhật Bản.
Các đại thần Viện – Bạc và tổng đốc Vũ Trọng Bình đều im lặng, sau khi tâu “vâng”.
Sau một lúc nguôi giận, nhà vua lại từ tốn nói:
- Thôi, các ngươi cứ đọc sách báo, suy nghĩ thêm và vua tôi ta cùng đàm đạo lại. Bây giờ, trẫm muốn hỏi Vũ Trọng Bình về Bắc Kì: “Sau khi luôn mấy năm bị lụt lội và [bận] việc quân, nếu có việc hoãn cấp [:chóng chầy, sớm muộn; :khi có việc cần], lòng người có thể tin cậy được không?” (260) .
Vũ Trọng Bình thưa:
- Tâu, “lòng người [Bắc Kì] đều muốn được yên, nhưng cho là có thể tin cậy, tôi là người ngu cũng không dám chắc” (260) .
Vua Tự Đức buồn buồn:
- Ở đây, hôm nay, có thượng thư Bộ Hình, đại thần Viện – Bạc Phạm Thận Duật đó. Hồi tháng ba nhuận, năm Kỉ mão (1879), trẫm có lần khen Phạm Thận Duật “am hiểu, hoà nhã” (261), “không như người Bắc Kì, [lại] am hiểu hơn [Nguyễn Tăng] Doãn; [trẫm] khuyên [Phạm Thận Duật] làm người danh thần” (261) . Thế mà các quan “khoa đạo là Trần Đức Nghiệp, Nguyễn Hàm Quang tâu nói: “Trong, ngoài đều là thần thiếp, chưa từng chia ra Nam, Bắc. Bệ hạ nếu cho [Phạm Thận] Duật không phải như người Bắc Kì mà yêu quý khác, trộm sợ thiên hạ dòm được nông sâu, lời nói coi khác ngày nay lại nổi lên” (261). Trẫm đã giận dữ bảo rằng: “Các ngươi nói rất không phải! [Nói] không phải [như] người Bắc Kì là [ý trẫm] chuyên nói về phong thể, nghi tiết và cử chỉ, là không phải như người Bắc Kì chưa am hiểu đó thôi. Trẫm từ trước đến nay, dùng người có phân biệt gì Nam, Bắc. Hiện nay thứ bậc, chức vị, trong [Nam] ngoài [Bắc] đều như nhau, thiên hạ cùng biết đã lâu. Ngay như niên hạn cử nhân, [cũng] đã đổi theo như một. Còn việc khác phần nhiều giống như thế. [Không] ai không cảm khích cố gắng, [sao] các ngươi không nhận [thấy], lại dám xướng lên lời nói bất chính [:không đúng]? [Như vậy] sẽ làm mê hoặc lòng người, hại việc không phải nhỏ…” (261) . Thật ra, cũng như đức thế tổ Cao hoàng đế Gia Long, trẫm không muốn phân biệt và quả thật là không phân biệt Đàng Trong, Đàng Ngoài, thế mà… Lòng người Bắc Kì còn muốn gì? Nếu nói như Vũ Trọng Bình, trẫm thấy thật không thể hiểu nổi!
Nhà vua và tổng đốc Vũ Trọng Bình, cũng như bốn đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Nguyễn Chính [Chánh] bỗng dưng đều im lặng suy nghĩ. Nghe nhắc đến Nguyễn Tăng Doãn, thượng thư Nguyễn Văn Tường không khỏi ngậm ngùi về một đại thần đồng hương, đồng sự đã mất vì bệnh, hồi cuối tháng tám, năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879) (262). Ông cũng không thể không liên tưởng trong thoáng ngậm ngùi ấy về một người bạn thân thiết cùng tuổi, cũng là đồng hương, đồng liêu, đồng sự khác: viên ngoại lang Bộ Hộ, lãnh lang trung Lê Đình Dao. Cũng như Nguyễn Tăng Doãn, qua mấy tháng dài bị ốm, chết khi đang tại chức, Lê Đình Dao cũng đã mất vì lâm bệnh, sau khi chính ông đã nhiều lần tiến cử vị quan khẳng khái ấy, thuộc Bộ Hộ của mình, lên hàng đại thần, thay thế Nguyễn Tăng Doãn, và tiếc thay, lần tiến cử gần đây nhất, trong năm Canh thìn (1880) này, đã được sắc chỉ chuẩn y của vua! Khi Lê Đình Dao đã khá hồi phục, có sắc chỉ, thì Lê Đình Dao lại mất (262)!
Nhà vua lại nói tiếp, cắt đứt thoáng tưởng tiếc trong lòng thượng thư Bộ Hộ:
- Trẫm biết không chóng thì chầy, không sớm thì muộn, việc khi cần đến lòng dân để kháng chiến chống Pháp sẽ đến. Trẫm biết việc Pháp sẽ gây chiến thêm một lần nữa ở Bắc Kì lại xảy ra… Nhưng lòng dân Bắc Kì như Vũ Trọng Bình nói, thì biết làm thế nào?
Các đại thần và tổng đốc Vũ Trọng Bình đành im lặng.
- Sao các ngươi không nói gì? Hay tự thấy đã nói nhiều rồi?
Các đại quan đã biết tính nhà vua, khi nhà vua nổi giận một cách bất ngờ, nên im lặng cho cơn giận ấy qua đi, tốt hơn là tâu đáp lời.
- Trẫm những mong sĩ dân Bắc Kì ai cũng như Trương Định. Nếu thần dân của triều đình đều như Trương Định thì lo gì nước mất. Trẫm còn nhớ năm thứ ba mươi mốt (1878), hình như vào tháng tư thì phải, bố chính sứ Trà Quý Bình ở Quảng Ngãi có tâu xin cấp ruộng tự điền cho cha con Trương Định tại quê quán gốc (huyện Bình Sơn, tỉnh ấy). Các đại thần tâu là người trong Nam Kì như Trương Định rất nhiều, xin để điều nghiên tất cả rồi lập danh sách một lượt và chu cấp một thể (263). Mặc dù trẫm quở, và bảo là phải cấp ngay cho vợ Trương Định lo tế tự cho cha con anh hùng nghĩa sĩ họ Trương, nhưng trong lòng cũng cảm động khôn xiết, khi biết dân Nam Kì mộ nghĩa chống giặc Pháp như Trương Định rất nhiều, chưa kịp ghi công được hết (263).
Một lát ngẫm nghĩ, nhà vua lại nói:
- Thôi, chuyện Nam Kì còn đó. Bây giờ lại nói tiếp chuyện Bắc Kì. Trẫm hỏi thêm Vũ Trọng Bình, “Hiện nay [ở biên giới bắc] người giúp việc [:phụ tá] phần nhiều chưa có phẩm vị, danh vọng cao, cho nên bàn bạc với Hoàng Tá Viêm nhiều khi không hợp. Ngươi nếu sung chức hiệp đốc hoặc một chức gì về việc ngoài biên, tự liệu cùng với Tá Viêm bàn tính, tất [viên họ Hoàng ấy] phải nghe theo mà nên việc được không?” (260) .
Vũ Trọng Bình thưa:
- “Tôi tính thì thô suất, việc binh lại không được giỏi, không dám tự đương chức ấy. Duy có cho tôi về tỉnh Sơn [Tây] nhận chức, nếu gặp việc cùng bàn, tưởng cũng có việc phải nghe” (260) .
- Thế thì… Để trẫm cùng ngươi và các quan bàn lại việc này… Bây giờ trẫm hỏi việc khác: “Ngươi trị dân [Bắc Kì, Nghệ – Tĩnh] thế nào mà được dân yêu?” (260) .
- Tâu, “duy có không dung túng bọn tư lại [kiếm chác trong việc làm giấy tờ, đơn trương cho dân]; nghiêm dẹp trộm cướp; và sức [cho] phủ, huyện nhất thiết các việc tạp tụng, không được bỏ lâu; thuế lệ hằng năm, cũng chính mình xét đến. [Tất cả] đều làm điều [đã] biết được thôi ” (260) .
- Thật lòng trẫm rất “muốn lưu Trọng Bình ở lại sung làm quan Bộ Lại, nhưng rồi, [trẫm] cho là quan to ở Bắc Kì, phần nhiều là người mới, phải được bậc lão thành để giúp cho việc trấn áp […] [Thôi, ngươi gắng giúp trẫm,] hãy về lị sở nhận chức” (260) .
Sau đó, vua Tự Đức và các đại thần cùng nhau bàn thêm một vài việc. Trong câu chuyện, vua tôi còn bàn thêm về sự trỗi mạnh, vượt lên của nước Nhật Bản. Thượng thư Nguyễn Văn Tường có phân tích rằng: “Sở dĩ Nhật Bản trỗi mạnh là do người Nhật ở quần đảo như người Anh Cát Lợi, nên giỏi về ngành hàng hải. Họ cũng sớm học tập kĩ xảo, công nghệ, khoa học của Tây dương. Vả lại, người Nhật Bản có truyền thống võ sĩ đạo. Võ sĩ đạo là tôn chỉ của một tầng lớp người Nhật nối đời chuyên sống bằng nghề binh, kiểu như tộc truyền, gia truyền. Về võ, ngoài cung kiếm, họ còn có môn võ thuật lấy “tay không” (Không thủ đạo) làm vũ khí, lại có môn võ thuật khác, lấy “nhu” làm lợi thế (Nhu đạo, đợi địch tấn công trước rồi nương theo đà tấn công của địch, lấy đà lao tới của địch mà quật lại)… Nhưng nói là nói thế, cái chủ yếu là Nhật Bản sớm chủ trương “Đông học vi thể, Tây học vi dụng” , chịu nhẫn nhục để cướp nghề của Tây dương, rồi sẽ quật lại họ. Nhưng cho đến nay, năm Canh thìn (1880) này, sau vài mươi năm Nhật Bản chấp nhận kí “hoà” ước với các nước Âu Mỹ, chưa thấy ở nước Nhật có sự quật khởi đó! Và nói như tổng đốc Vũ Trọng Bình là nước Nhật chẳng có gì về tài nguyên khoáng sản, đất đai nông nghiệp cũng rất ít và không màu mỡ, lại động đất thường xuyên (đến nỗi nhà cửa cũng làm bằng gỗ nhẹ, với phên che bằng giấy để đỡ bị sụp đổ nặng, gây chết người, khi gặp địa chấn mạnh)… Tâu hoàng thượng, tôi có nghe một huyền thoại về nước Nhật nghèo nàn, lạc hậu và về lòng yêu nước của người Nhật thế này: Cách đây mấy chục năm, khi dự đấu xảo (thi đua kĩ nghệ) ở châu Âu Ba La, đại diện các nước cùng khách xem bước vào gian hàng trưng bày của Nhật Bản, họ ngạc nhiên không thấy có gì cả, ngoài một thanh niên Nhật Bản. Các đại diện, những khách xem đang ngơ ngác, khinh bỉ, họ bỗng kinh hoàng thấy thanh niên Nhật ấy nói, “dân tộc Nhật hiện tại chỉ có trái tim yêu nước, xin hẹn với tất cả năm châu bốn bể vào dịp đấu xảo khác”. Sau đó, anh ta đưa lưỡi kiếm sắc tự mổ ngực, lôi ra một quả tim ròng ròng máu đỏ… Người Nhật yêu nước nhưng đất nước Nhật Bản vẫn rất nghèo nàn, lạc hậu, thậm chí còn nghèo nàn, lạc hậu hơn cả Triều Tiên… Cho nên, bọn Tây dương chỉ chiếm nước Nhật để làm nơi đỗ tàu chiến, tàu buôn và làm bàn đạp tấn công các nước như Triều Tiên, Trung Hoa, Đại Nam… Cũng đúng là người Nhật hùa theo Tây dương, chủ trương lấy việc xâm lược, cướp bóc lân bang làm phương cách để cho nước họ giàu mạnh. Họ đã xâm lược Lưu Cầu, lại đang chủ trương “chinh Hàn” và cũng đã xâm lược được Hàn quốc (Triều Tiên), hiện đang mưu tính đưa dân Nhật qua Hàn để đồng hoá dân Hàn (264)… Người Nhật nương theo bọn bạch quỷ Âu Mỹ để “duồng gió bẻ măng”, lại đang lăm le rắp tâm xâm lược cả Đài Loan… Nhưng dẫu sao, không thể kết án cả dân tộc Nhật, mà chỉ kết án những kẻ cầm quyền ở Nhật Bản, bởi họ chủ trương “duồng gió bẻ măng” theo gót bọn thực dân Âu Mỹ: Bọn cầm quyền hiện tại ở Nhật Bản ấy đang chủ trương xâm lược láng giềng da vàng đi đôi với việc canh tân nước họ… Chúng thần, những kẻ bầy tôi của hoàng thượng, không bao giờ tiết lộ chuyện cơ mật này vì sợ gây khích biến, nhưng báo chí, sách vở xuất bản tại Nhật Bản lại chửi rủa, khinh khi Triều Tiên, Trung Hoa và cả Đại Nam ta quá lắm…”.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại nói:
- … Tâu, nhưng bọn xâm lăng người Pháp, chúng nào có giúp ta gì đâu để học tập công nghệ Tây dương, mặc dù ta đã nhẫn nhục mười mấy năm nay (kể từ “hoà” ước Nhâm tuất 1862), nhất là từ khi kí kết “hoà” ước, thương ước Giáp tuất 1874 đến lúc này! Đã không giúp đỡ, Pháp lại còn ngăn cản ta thông sứ với nước Thanh, nước Xiêm, ngăn cản ta cho người đi học tập hay giao thiệp với Anh, Đức, Nga, Mỹ… Thậm chí, ngay Tây Ban Nha, bọn Pháp cũng đang hất cẳng để một mình khuynh loát ta! – Quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường cảm thấy giọng nói mình hơi gay gắt, sợ thất lễ với nhà vua, ông cố nói chậm lại –. Nói ra về việc học tập công nghệ, khoa học Tây dương, tôi thấy cũng thật xấu hổ cho người da vàng mình, bởi ta tự mãn, tự phụ suốt mấy trăm năm, mới lạc hậu thua bọn da trắng đến thế… Nay phải tự mày mò từ đầu thì quá trễ, nên không còn cách nào khác là phải cướp nghề…
- Như vậy, ta có phải là kẻ cướp không?
Thượng thư Nguyễn Văn Tường thưa:
- Tâu, dạ không. Ta dùng chữ cướp nghề theo kiểu dân dã đại chúng. Thật ra, trong dân chúng, học nghề mộc, nề (hồ), may vá, thuốc bắc, nghề võ, nói chung là các thứ nghề, người học đều phải cướp nghề, tức là học những thủ thuật, những ngón bí truyền mà thầy không dạy. Ở đây, xin được thưa rõ là: cướp nghề tức là cướp phương pháp, cách thức tiến hành nghiên cứu, thực hiện. Tôi nghe nói sinh viên Nhật Bản còn tự sát bằng cách tự mổ bụng, để bạn học đút tài liệu, bản vẽ máy cơ khí, điện báo vào, may lại, đưa xác về nước. Chỉ có cách đó mới qua mắt được bọn mật thám khoa học – công nghệ Tây dương… Đó cũng là cướp nghề. Vì vậy, ở Âu Mỹ, các nước đều có cơ quan đăng kí bản quyền về sáng chế, phát minh và cả về nghiên cứu, sáng tác, ngay từ phút đầu…
- Tại sao ta không cướp nghề như thế? Tác giả là ai, người nước nào, ta cứ tôn trọng, có sao đâu! Cần gì cướp bản-quyền-danh-tính của tác giả phát minh, sáng chế, sáng tác… – Vua Tự Đức ngẫm nghĩ –. Thế gian này, thật đáng sợ thay! Trẫm nói vậy, không phải là chán đời, trốn đời. Tháng chạp, năm thứ hai mươi chín (1876), Tôn Thất Thuyết muốn xuống tóc đi tu ở chùa (265). Trẫm bảo Thuyết điên hay sao mà nghĩ vậy (265)! Trẫm đã trách y một cách thật đích đáng đấy. Dẫu đời có thế nào, cũng không thể tất thảy đều đi tu chùa hết cả được… Các ngươi và thần dân đều rõ, xưa nay, các đời bản triều đều có xây dựng chùa, tu bổ chùa, cụ thể là giao cho Bộ Công đảm trách; hơn nữa, còn trả lương hàng tháng cho nhà sư. Nhưng… có điều…, người tu hành phải rất ít thôi, phải thuần tuý tu hành, và họ phải có trách nhiệm của họ (265). Chúng ta phải có trách nhiệm với nước, với nhà, với đồng loại… Thôi, trở lại vấn đề đang bàn, đó là việc cho người ra nước ngoài học tập để canh tân…
- Tâu, chúng thần đều suy tư biết bao về việc này, cũng đã tìm người xét tuyển…
Đến gần trưa, vua tôi mới chấm dứt cuộc chuyện trò thân mật. Đây là một buổi mạn đàm thi thoảng mới có, không phải theo nghi thức đại triều hay thiết triều lệ thường.
Năm vị đại thần thi lễ chào vua.
Đó là buổi sáng một ngày thượng tuần tháng chín, năm Canh thìn (1880). Vài hôm sau, nhà vua công bố bản dụ về việc hiệp đốc Tôn Thất Thuyết dâng sớ hặc tội thượng thư Nguyễn Văn Tường trong vụ tiền sềnh (tiền giả, tiền dị dạng) với những lời minh oan, chứng minh của chính nhà vua cho sự trong sáng của Nguyễn Văn Tường trong vụ đó (220). Bấy giờ, tổng đốc Tam tuyên Vũ Trọng Bình còn ở lại tại Huế, ông thấy rõ là Tôn Thất Thuyết cũng như nhiều người dân lương thiện đã mắc mưu bọn khâm sứ giặc Pháp, nhất là tên Rheinart và bọn giặc miệng “tả đạo” ở kinh đô. Quan họ Vũ nói với thượng thư Nguyễn Văn Tường và các đại thần:
- Tôi rất quý tài thao lược của hiệp đốc Tôn Thất Thuyết và quyết tâm chống Pháp của ông ấy. Nhưng tôi cũng quá hiểu rõ nhược điểm của quan hiệp đốc họ Tôn Thất. Nhà vua nhận định về quan hiệp đốc Tôn Thất Thuyết thế là rất đúng, tuy hơi gay gắt. Thật ra, nhà vua cũng quý tài Tôn Thất Thuyết lắm…
- Đúng vậy. Quan tổng đốc nói thật chí lí. Nhà vua từng khuyên hiệp đốc Tôn Thất Thuyết: “Trẫm muốn ngươi Tôn Thất Thuyết chăm học thi, lễ, có phong thái nho tướng, liệu địch giành lấy thắng, có phong thái trí tướng, vỗ yên quân dân, có phong thái nhân tướng, không nên chuyên cậy uy vũ mà thôi. Xưa Bạch Khởi hối hận về đa sát, Trần Bình [trong sử Trung Hoa] than thở về có âm mưu, há không lấy làm răn ư?! Đấy đều là lời cách ngôn, chỉ luận của thánh hiền, không phải lời của trẫm. Xưa Tử Trương viết [tên người hiền] vào dải áo, Tử Lộ xin suốt đời làm theo [để tiến cử nhân tài giúp nước]. Bọn ngươi sao không để tâm, chớ tự bỏ đi!” (266) . Tôi thấy quả là nhà vua vừa quở trách nhưng cũng vừa ưu ái lắm. Mặc dù hiệp đốc Tôn Thất Thuyết tâu hặc tôi không đúng và tỏ ra ông ấy không hiểu ất giáp gì về vụ việc, nhưng tôi cũng không phải thiếu công bằng trong việc đánh giá mặt nhược này lẫn mặt ưu khác một cách toàn diện về hiệp đốc họ Tôn Thất. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói –.
Mấy ngày sau, trong tháng mười năm Canh thìn (1881) này, thượng thư Nguyễn Văn Tường nhận được vị thuốc gửi mua tận Trung Quốc. Ông liền mang vào Thái Y viện để làm thủ tục tiến lên vua, sau khi để lại một ít để dùng riêng cho bản thân.
Đầu tháng mười một, sau một buổi thiết triều, vua Tự Đức bảo thượng thư Nguyễn Văn Tường:
- Trẫm muốn nói với Nguyễn Văn Tường.– Nhà vua mỉm cười –. Trẫm nhận được vị thuốc “Thiên sinh ô truật” (267) do ngươi tiến. Thật là một vị thuốc quý. Các ngự y đều rất khen sau khi thử nghiệm. Trẫm cũng đã dùng, thấy trong các bữa ngự thiện, ngon miệng hơn trước, thấy ngủ cũng dài giấc hơn.
- Tâu hoàng thượng, hôm đã lâu, tôi “vì nghe viên sung chức ở Y viện trước [đây] là Đỗ Văn Tuyển nói: “Mạch vua, tì hình như hơi kém, thứ truật này làm thuốc, bổ hơn bạch truật”, cho nên [tôi] gửi mua dâng tiến” (267) .
- Đúng là “vua tôi cùng bệnh càng thương nhau” (267) . – Vua Tự Đức cảm động nói –.
- Kẻ bầy tôi chỉ mong long thể hoàng thượng được an khang.
Đến trung tuần tháng mười một, Canh thìn (1880), thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường dâng sớ xin lập Cục Thuyền chính (quản lí tàu thuyền vận tải, như Cục Chiêu thương của nhà Thanh) (268). Vận tải bằng tàu thuyền của chính nước mình, chống bọn hải tặc có hiệu quả, và để phát triển ngoại thương, giao thông, đó là một trong những ưu tư của ông, nhất là sau khi bản sớ tâu xin nhà vua chuẩn y việc khoi đào thêm vài đoạn sông ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An để mở đường thuỷ xuyên Việt, đến nay vẫn chưa thi hành, thực hiện được. Nay bản sớ xin lập Cục Thuyền chính được nhà vua giao cho đình thần bàn thảo và quyết nghị, cuối cùng vua chuẩn y. Đình thần cũng rất đồng ý với thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường, khi ông cho rằng phải lo tự cường lấy, không thể cứ nhờ Cục Chiêu thương nhà Thanh vận tải mãi. Chu Đình Kế dâng sớ xin đề cử Nguyễn Văn Tường làm đại thần kiêm quản Cục Thuyền chính. Thượng thư Bộ Hộ thấy không thể để tình trạng tàu thuyền vận tải của ta cứ mãi thua sút nước khác, nhất là cứ phải nhờ Cục Chiêu thương vận tải giúp, nên ông nhận lời đảm trách (268). Bấy giờ, tổng đốc Sơn [Tây] – Hưng [Hoá] – Tuyên [Quang] Vũ Trọng Bình cũng “dâng sớ phúc tâu về việc vận tải [ở mạn Bắc nước ta] và tự xin đi lại đốc thúc việc vận tải. Vua cho là công việc về thuyền mới bắt đầu đặt riêng [thành một Cục], tất phải bên trong, bên ngoài có người. [Vũ] Trọng Bình đã được việc, lại xin tự đương lấy, bèn cho [hộ lí tổng đốc [Nam] Định – [Hưng] Yên [cùng với ông] đổi [cương vị đảm nhiệm] cho nhau” (269) . Nhờ vậy, ngoài việc vận tải, Cục Thuyền chính còn đảm đương việc tuần tiễu trên mặt biển nữa.
Tổng đốc Định – Yên Vũ Trọng Bình rất ủng hộ Nguyễn Văn Tường trong việc đề xuất chủ trương thành lập Cục Thuyền chính (269). Họ lại hỗ trợ cho nhau như những tháng năm còn là phủ doãn Thừa Thiên – tri huyện Thành Hoá và nhất là trong thời gian họ cùng tiễu phỉ ở phía Bắc.

Hết tệp 15
(phân đoạn 7 truyện kí thứ 8)

Khởi viết truyện kí thứ tám này
vào lúc khoảng 07 giờ sáng,
ngày 17.11.2002 (13.10 Nh. ngọ, HB.2).
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 8 lúc 16 giờ kém 10 phút,
ngày 30.11.2002 (24.10 Nh. ngọ, HB.2).
Sữa chữa xong vào lúc 15 giờ 24 phút,
ngày 04.12.2002 (01.11 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN


(250) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 298.

(251) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 251.

(252) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 370 – 371.

(253) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 236 – 237.

(254) KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT., thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), bài số 6, bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch thơ của Trần Xuân An; bài số 23, bản dịch thơ, dịch nghĩa của Trần Đại Vinh, hai bản dịch khác của Nguyễn Tôn Nhan (nghĩa) – Trần Xuân An (thơ), sđd., 2000, tr. 155 – 157, 213 – 216.

(255) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 394 – 395.

(256) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 322 – 323.

(257) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 259.

(258) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 271 – 272. Xem thêm: CXL, sđd., 2001, tr. 343 – 344: “Lý Dương Tài cấu kết với Pháp, Pháp có ý ủng hộ cho Lý Dương Tài”, “bọn Pháp đã tổ chức nội ứng ở đồng bằng để ủng hộ Lý”…

(259) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 67, 305.

(260) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 368 – 369.

(261) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 212 – 213.

(262) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 267, 48, 64. Nguyễn Tăng Doãn, người làng Câu Nhi, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Hai chữ “đồng hương [:cùng làng]” ở đây được hiểu nghĩa rộng (cùng tỉnh). Trong thời điểm này, tại triều, còn có Hoàng Hữu Xứng (có tiếng thanh liêm, người Bích La, Thuận Xương, Quảng Trị), làm tả thị lang Bộ Lại đến tháng giêng năm Canh thìn [1880] (kiêm quản Viện Đô sát từ tháng năm đến tháng tám, Đinh Sửu [1877], vì gặp phải lúc tang chế). Về Lê Đình Dao (người làng Bồ Bản, huyện Thuận Xương [Triệu Phong], Quảng Trị), ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 312 – 313 đã ghi: “[Lê] Đình Dao, tính thuận hoà chất phác, có phong độ cổ nhân [:tiên phong đạo cốt], làm quan ba mươi năm, chìm đắm mãi hàng quan dưới, vẫn điềm đạm tự xử, không nói một câu gì buồn bực. Bấy giờ, [Lê Đình] Dao có nhiều bạn đồng quận làm quan chức trọng yếu, [thảng] hoặc có người khuyên chỉ cần đến bái yết một lần là được chân quan tốt, thì [Lê] Đình Dao chỉ từ tạ nói là mình vụng về. Đến khi có tuổi, bạn bè nhiều người gặp bước làm to, nhiều lần tiến cử Dao lên hàng đại thần, đã xin được chỉ vua thì Dao đã mất”.

(263) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 118.

(264) Xem thêm: Võ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới (LSCĐTG.), quyển 1, Nxb. ĐH. & THCN., 1986, tr. 459 – 490. Ngày 31.03.1854, khuất phục trước vũ lực, Nhật phải kí “hoà” ước bất bình đẳng với Mỹ, và tiếp đó, còn phải kí với Anh, Nga, Pháp, Hà Lan các “hoà” ước tương tự. 1856, Mỹ đòi thêm quyền thương mại và tư pháp trị ngoại (công dân Mỹ phạm tội trên nước Nhật phải do Mỹ xử lí). Anh, Pháp cũng tập trung 40 tàu chiến để chuẩn bị tấn công Nhật nhằm làm sức ép. Trước áp lực các nước Âu Mỹ thực dân, đế quốc, Nhật phải kí thêm các thương ước bất bình đẳng vào năm 1858. Không được thiên hoàng Nhật (vua, hư vị) đồng thuận, Mạc Phủ (chúa, thực quyền) vẫn phải kí với Mỹ một “hoà” ước khác vào ngày 08.08.1858, với các nội dung chính: a). Nhật Bản phải mở cửa 5 hải cảng làm nơi buôn bán: Yokohama, Nagasaki, Niygata, Kobé, Hakodaté. b). Quan thuế phải do hai bên thương lượng. c). Pháp luật Nhật Bản không có quyền trừng trị những người ngoại quốc phạm tội trên đất Nhật Bản. d). Ở những hải cảng đã mở, Nhật phải dành đất cho người nước ngoài cư trú. Người nước ngoài có quyền thuê đất vĩnh viễn, có quyền kiểm sát và quyền tự trị ở đó. đ). Mỹ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc. Ngoài ra, điều IV ghi rõ: “Hàng quân sự của Hiệp chủng quốc [:Mỹ] có thể nhập không thuế vào Yokohama, Hakodaté và Nagasaki”. Ngay từ đó, Nhật Bản đã bị trở thành căn cứ quân sự của Mỹ. Sau “hoà” ước, thương ước ấy, trong ba tháng tiếp theo, Nhật còn phải kí với Anh, Pháp, Nga và Hà Lan những “hoà” ước, nhượng ước tương tự. [Lược trích từ sđd., tr. 472 – 474].

(265) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 358. Về việc Bộ Công lo đảm trách tu bổ chùa, ở thời điểm này, vì khó khăn về ngân sách, nên định kì tu bổ có hoãn và giảm (sđd., tr. 145)…

(266) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 291 – 292.

(267) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 388.

(268) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 388 – 393.

(269) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 395.

Soạn xong phần chú thích
vào lúc 19 giờ 24 phút,
ngày 06.12. 2002 (03.11 Nh. ngọ HB.2).

TRẦN XUÂN AN


HẾT TỆP 15
(PHÂN ĐOẠN 7 TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Xin xem tiếp TỆP 16
(phân đoạn 8 truyện kí thứ 8)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”

Tệp 14 - Tập II Blog C
(PHÂN ĐOẠN 6, TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


TRẦN XUÂN AN

CUỘC CHIẾN NGOẠI GIAO
VÀ NGOẠI THƯƠNG


Truyện kí thứ tám
(phân đoạn 6)

16

Một trận địa không tiếng súng trên chiến trường kinh tế (với nghĩa quốc kế dân sinh, économy) thuộc chức năng, trách nhiệm Bộ Hộ là tiền tệ (tài chính). Đồng tiền nước ta từ những năm tán lí Nguyễn Văn Tường còn tiễu phỉ phía bắc, đã bị những tên khách buôn nước Thanh làm giả. Tiền giả ấy tràn sang các tỉnh biên giới bắc và một số tỉnh Bắc Kì, nằm trong mục đích của các khách thương người Hoa là vơ vét hàng hoá và lũng đoạn nền tài chính nước ta. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường nhớ rõ lần đầu tiên ông phát hiện ra loại tiền nhân dân bị lừa là vào tháng tư, năm Tự Đức thứ hai mươi bốn (1871) (213). Khi đi sứ vào Gia Định với thượng thư Lê Tuấn, ghé lại Bình Định vì nồi hơi nước tàu bị nổ, ông càng biết rõ tiền giả đã tràn lan ở cả Bình Định, khi vỡ ra vụ bọn khách buôn người Thanh chở sang thông mưu với tên chủ lò đúc Hoàng Đình Quan, vào tháng sáu nhuận, năm Tự Đức thứ hai mươi sáu (1873) (214). Như thế là tiền giả (tiền sềnh, tiền dị dạng) đã là một quốc nạn từ Bắc đến Trung, trong nhiều năm nay!
Đến tháng mười một, Bính tí (1876), “khi ấy tỉnh Hà Nội có người khách buôn thuyền ở Tô Châu chở tiền đồng cổ ra khỏi cửa biển” (215) . Ngay lập tức, có sắc dụ cấm chỉ. Hoá ra, còn có vấn đề là kim loại đồng nguyên chất! Bọn con buôn hám lợi đã thu mua tiền đồng thật, nguyên chất. Chúng lại đúc tiền đồng pha kẽm mang hiệu tiền Đại Nam, chất lượng xấu, lại mỏng hơn, và càng về sau càng dị dạng.
Sau nhiều biện pháp cấm đoán vẫn không cấm nổi tệ nạn ấy, vì tiền giả đã đi sâu vào trong sinh hoạt chợ búa, mua bán thường ngày trên hầu hết các nơi trong tất cả các tỉnh!
Đây là một vấn nạn rất nhức đầu cho cả nước! Đành phải thi hành tạm thời liệu pháp thử để nghiệm: “dĩ độc trị độc”, vào năm một tám bảy tám (1878)!
“Bỏ lệ cấm tiền đồng khác kiểu để đánh thuế.
Gần đây, các người buôn nước Thanh thu nhiều tiền đồng khác kiểu, tải đến các cửa biển từ tỉnh Quảng Nam trở vào Nam, để trao đổi với nước ta. Tháng trước, đã chuẩn cho nhân dân, nếu có lấy nhầm, thì cho thú nộp ở tỉnh, [tỉnh sẽ] đổi cho tiền kẽm (mỗi quan tiền đồng đổi lãnh hai (02) quan tiền kẽm; tiền đồng ấy [sẽ được] đúc thành đồng để vào kho).
Đến đây, bọn khâm sai ở Quảng Nam là Hoàng Diệu, hộ phủ là Lâm Hoành, khâm phái Quảng Ngãi là Đàm Khắc Nhượng, bố chính là Đoàn Dao tâu lên, nói: “Người buôn nhân đó chọn lấy; dân nghèo mua gạo không được; tình [hình] lại càng khổ; tâu xin bỏ cấm [: bỏ lệ cấm]”.
Bộ Hộ nghị lại, cho là tiền như nước suối, phép phải lưu thông luôn. Tiền hiệu nước ta lưu hành ở các xứ Bằng Tường, Ninh Minh tỉnh Quảng Tây và Mã Cao tỉnh Quảng Đông [Trung Quốc] rất nhiều. Họ dùng mà ta cấm, không những hại cho dân ngay ở trước mắt, sợ đến khi ta thiếu mà họ thừa. Nếu, hoặc lo họ trà trộn, thì chỉ trong khoảng năm, sáu [5; 6] phần, trà trộn được bao nhiêu. Thà rằng cấm mà không tiện, không chu đáo, sao bằng cho lưu thông để tìm tòi rồi rào [:dồi dào] thì hơn. Nay xin không cứ thuyền buôn nước nào, nếu có hiệu kiểm tiền đồng, tiền kẽm nước ta, đều cho đem đến buôn bán, nhưng khi vào cửa biển phải báo ngay cho quan coi cửa biển xét thực, chiểu lệ đánh thuế (trăm phần trăm thu mười phần). Nếu có ẩn lậu, chiểu thương ước tịch thu cả tiền trong thuyền vào Nhà nước. Viên quan tỉnh và coi cửa biển không kiểm soát được, chiểu luật trị tội. Người tố cáo ra mà được sự thực, trích một nửa tiền ở thuyền để thưởng cho. Như thế thì người buôn tham lợi tranh nhau mà đến. Tốn đồng, kẽm, công thợ, vật liệu người, mà sung vào tiền hiệu thuế quan của ta, tưởng cũng hơi tiện [lợi].
Vua [châu phê] bảo rằng: Hai hạt Lạng Sơn, Cao Bằng, quen dùng tiền nước Thanh, từ trước đến nay cũng cho; chuẩn cho lục sức thi hành ngay để giúp sự cấp bách cho dân” (216)
.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường xét nghĩ trên cơ sở lời tâu xin của các vị quan rất có uy tín và có thực tế (đang làm khâm sai, khâm phái và quan tỉnh). Ông lập luận theo nguyên tắc định mức mệnh giá đồng tiền: Mệnh giá = giá vật liệu (đồng, kẽm) + tiền công + tiền than củi đốt lò đúc. Đó cũng là nguyên tắc định mệnh giá đồng tiền vàng, đồng tiền bạc. Đồng tiền vàng, đồng tiền bạc cũng là một loại hàng hoá có giá trị trên toàn thế giới. Nguyên tắc định giá trị hàng hoá vẫn là nguyên tắc ngang giá (kí hiệu bàng dấu bằng [ = ]). Như thế nạn tiền giả sẽ được giải quyết. Vấn đề đặt ra khá khó khăn là kiểm định chất lượng kim loại quý (vàng, bạc, và có thể kể cả đồng, kẽm) được đúc thành tiền.
Về mặt lí thuyết, nhận định trên là hoàn toàn đúng. Trên thực tế, lịch sử tiền tệ từ xưa đến nay vẫn xuất hiện và tồn tại loại tiền kim loại quý (đồng tiền vàng, đồng tiền bạc). Thượng thư Bộ Hộ còn lưu ý câu viết trong bản tấu của Hoàng Diệu, Lâm Hoành, Đàm Khắc Nhượng, Đoàn Dao: “Người buôn nhân đó chọn lấy; dân nghèo mua gạo không được; tình [hình] lại càng khổ; tâu xin bỏ cấm [: bỏ lệ cấm]” . Đúng vậy. Nếu cấm và thu đổi tiền giả (đồng pha kẽm), thì các người buôn sẽ tuyển chọn để thu mua tiền thật (chất lượng đồng tốt) và không chịu thu tiền giả (chất lượng đồng kém, đã pha thêm kẽm), mà tiền giả (tiền sềnh) đã ở trong hầu bao của nhân dân (ban đầu do tham lợi!), nhất là dân nghèo bị lừa gạt.
Sắc dụ đã được ban ra, đi vào đời sống sinh hoạt thường ngày ở chợ búa với sự lưu thông tiền tệ của nó.
Nhưng trong thực tế, tập tâu xin của Hoàng Diệu, Lâm Hoành, Đàm Khắc Nhượng, Đoàn Dao, phiếu xét nghĩ, nhận định, đề nghị của Bộ Hộ do Nguyễn Văn Tường phụ trách, và cả châu phê lẫn sắc dụ của vua Tự Đức đều được thực tế thị trường phản hồi là sai lầm!
Đây là một vấn nạn rất nhức đầu cho cả nước! Một quốc nạn, do bọn khách buôn người Hoa và một số người Tây dương! Quốc nạn này nảy sinh một khi các cửa khẩu đã mở ra, ở miền núi biên giới bắc (tự phát), ở miền biển (thương ước). Mở cửa về ngoại thương, buôn bán với tất cả các quốc gia (Hoa, Nhật, các nước Âu Mỹ…), việc đó đòi hỏi phải có một loại tiền thống nhất trên thế giới (tiền quốc tế, không phải tiền tệ của một nước nào). Nhưng thực tế là không có loại tiền ấy. Do đó tiền Đại Nam trôi nổi ra nước ngoài là không có gì lạ. Cũng không có gì lạ khi tiền nước Thanh trôi nổi vào Lạng Sơn, Cao Bằng… Và do lòng tham, tiền giả do người Thanh, người Tây dương tràn vào nước ta, thu hút tiền thật nước ta ra nước ngoài, thu lợi chênh lệch về giá (kim loại đồng là hàng hoá), vơ vét các loại hàng hoá khác với giá rẻ (thu mua bằng tiền giả [tiền sềnh]). Có một âm mưu phá hoại về kinh tế, cụ thể là về tài chính, gây rối loạn thị trường? Về quân sự, đồng là một kim loại chiến lược thường dùng để đúc súng đạn. Có âm mưu gì ở đó? Về sau, triều đình mới phát hiện ra là có bàn tay người Pháp ở Gia Định nhúng vào.
“Thương trường là chiến trường” . Trên mặt trận này, bốn vị quan kia, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường và vua Tự Đức cũng như đình thần đã vấp phải một thất bại, do ban ra sắc dụ “chữa cháy” trước thực trạng tiền sềnh từ lâu đã tràn vào nước ta, nhân dân đã trót lỡ tiêu dùng như tiền thật!
Sau đúng một năm, vào tháng mười một nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879), quan Nội các là nhóm Bùi Ân Niên tâu xin cấm tiền giả của người buôn nước Thanh:
“Quyền tự đúc tiền là tự triều đình nắm giữ. Bữa nọ vì trực tỉnh phía nam mất mùa, dân đói, tiền giả nhân đó trà trộn vào. Nhiều lần đã nghiêm cấm không được. Đình thần bàn xin đánh thuế nặng, cũng là không cấm mà hoá cấm. Nhưng biết đâu người giữ đồn cửa biển không giấu giếm, dung túng, kẻ buôn trí trá không gian dối! Lại nghe đồng tiền hạng lớn, kẻ buôn kia dụng kế tìm đổi, đem về đúc lại. Hiện nay, tiền cũ tiêu dùng, mười (10) phần chỉ còn [từ] một (01) [đến] ba (03) phần. Sau này, ở trong nước, đều là tiền của chúng, lâu ngày hư hỏng, lại không dùng được. Thế là cốt để cứu cái tệ tiền khan hiếm [do bị thu mua chở ra nước ngoài], mà trở thành cái lo không có tiền! Nếu không chước nghị kịp thời, thực sợ tiền đúc trộm ấy ngày nhiều, thông hành ngày rộng. Cái tệ lưu truyền [tiền sềnh] không thể nói xiết, tất đến vật giá đắt như vàng, tiền rẻ như đất, dù mười (10) phần bỏ đi chín (09) phần, cũng dùng gì được? Nay xin phàm tiền giả ở dân, thì cho đều tiêu dùng một đồng ăn một đồng kẽm. Hạn trong sáu tháng thì phải cấm hẳn… […]” (217) .
Đình thần lại luận bàn rất sôi nổi, căng thẳng. Biện pháp đưa ra rất nhiều, kể cả biện pháp dùng hình luật ở mức nặng. Trong đó, có một ý tưởng được nhấn mạnh: “kẻ buôn [tiền, gồm cả kẻ đúc tiền giả] trí trá không lợi được nhiều, tự khắc phải thôi” (217) . Vua Tự Đức cuối cùng cũng chuẩn theo đình nghị: sẽ cấm hẳn, sau một số biện pháp hạn chế. Vua bảo: “Sau có chỗ nào không đầy đủ, lại [đình] nghị thêm” (217) , vì biện pháp đưa ra cần phải đo lường hiệu quả trong thực tế.
Cuối tháng giêng năm Tự Đức thứ ba mươi ba (1880), Bộ Hộ của thượng thư Nguyễn Văn Tường được chuẩn y việc định lệ cấm tải trộm tiền dị dạng:
“Từ nay phàm tiền dị dạng, nhất thiết nghiêm cấm. Thuyền buôn các nước không được tải đến. Nếu chủ thuyền dụng tình giấu giếm, mà viên tỉnh phái và người coi giữ cửa biển tìm ra được sự thực, thì số tiền ấy một nửa nộp vào kho nhà nước, một nửa trích ra để thưởng. Nếu viên tỉnh phái và người coi giữ cửa biển thông đồng giấu giếm, bị người khác trích phát ra, thì hàng hoá ở thuyền ấy, một nửa đem thưởng cho người tố cáo, viên tỉnh phái và người coi giữ cửa biển ấy không cứ số tang nhiều hay ít, phải xử chém ngay; quan địa phương cũng [phải bị] nghiêm nghị cách đuổi” (218) .
Tháng bảy, năm Tự Đức thứ ba mươi ba, Canh thìn (1880) này, mới cách đây mấy tháng, Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại được chuẩn để làm rõ hơn lệ định lần trước:
“Từ nay trở đi, tiền dị dạng, thuyền buôn nếu có chở trộm đến cửa biển, là thuyền của người nước ta, thì chiểu luật lệ nước ta, thuyền và hàng hoá tịch thu hết, xử phạt hết mức trượng, đem đi lưu; nếu là người nước ngoài thì đều chiểu theo khoản thứ hai mươi bốn (24) trong thương ước, tra bắt tịch thu hết, không được đến buôn nữa” (219) .
Nhưng, tuy thế, đau xót thay, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường còn bị chính Tôn Thất Thuyết dâng sớ tâu về tiền giả, nhưng lại tâu theo lời gièm pha của kẻ xấu:
“Thượng thư Bộ Hộ là Nguyễn Văn Tường vì bị lời gièm, xin trả việc Bộ Hộ, đổi sung bộ khác.
Nguyên hiệp đốc là Tôn thất Thuyết tâu nghĩ về việc tiền đồng dị dạng có nói: “Thuyền nước khác mang đến, hết lòng xin giúp”; lại nói: “Cùng người chia lợi, mọt nước hại dân, lại ở kinh đô đồn rầm là Văn Tường nhận nhiều của lót, tâu xin bỏ cấm”.
Vua dụ rằng: “Thuyết ít học, không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể. Lời đồn ở kinh đô cũng không có căn cứ. Người xưa không thể dẹp được lời gièm, cho nên nói: “Cứu rét không gì bằng mặc hai lần áo cừu, dẹp lời gièm không gì bằng tự phải tu tỉnh”. Nguyễn Văn Tường từ lúc giữ việc ở Bộ Hộ đến giờ, có phần hết lòng trù tính, thuế khoá của nước có hơn lên; đương lúc phải giữ đà về quân nhu bận rộn, đều được ổn thoả cả. Trẫm đương trách uỷ cho làm có thành hiệu, sao nên tự đẩy đem thoái thác”” (220)
.
Bọn giặc miệng thật đáng sợ thay! Quả thật, đó chính là lời gièm của bọn giặc miệng. Kẻ thù không từ một thủ đoạn nào để triệt hạ uy tín của thượng thư Nguyễn Văn Tường, đến nỗi chính Tôn Thất Thuyết và những người lương thiện khác cũng mắc mưu chúng! Trong cuộc chiến ngoại giao, ngoại thương, ông lại bị “bắn hạ” bằng thủ đoạn giặc miệng thật thâm hiểm đến kinh sợ.
Không có gì khó khăn, phức tạp hơn, khi chính nhân dân trong nước, do lòng hám lợi vốn có của con người, “tham cái lợi nhỏ trước mắt, quên cái hại lớn sau lưng” , do sự ngây thơ, nhẹ dạ, cả tin trước sự tuyên truyền xuyên tạc của bọn giặc miệng, lại vô tình trở thành những kẻ đồn đãi tin xấu không công cho bọn giặc miệng. Ngay Tôn Thất Thuyết, sao ông không chịu tìm hiểu, điều nghiên, thẩm tra cho thật chính xác, trên những cơ sở thật đáng tin cậy (quá trình diễn biến của quốc nạn tiền sềnh, quá trình đề ra, bàn thảo, thi hành, kể cả sửa sai, điều chỉnh, bổ cứu các giải pháp của các quan khâm sai, khâm phái, quan tỉnh và của nhà vua, đình thần, nhất là của quan Bộ Hộ)? Hiệp đốc quân vụ Tôn Thất Thuyết trước khi nổi bật lên với hình ảnh một vị tướng có tài thao lược, ông vốn là một giám sinh Quốc tử giám, dẫu không đỗ đạt gì, nhưng cũng là một quan văn, từng làm án sát sứ tỉnh Hải Dương. Chức năng án sát sứ là gì, nếu không phải là thi hành và bảo vệ luật pháp với tư cách người chỉ đạo công vụ truyền giảng pháp luật và đồng thời là quan toà? Tính cách Tôn Thất Thuyết như vua Tự Đức lẫn đồng sự nhận xét bấy lâu, đúng là bản tính, và cũng không có gì lạ bởi “sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật”. Không phải thiếu trình độ, thiếu điều kiện thẩm tra trước khi tâu hặc, mà chính vì tính cách? Phải chăng do tính cách cá nhân, một thứ bản tính riêng, Tôn Thất Thuyết đã sa vào quỷ kế xúc xiểm để li gián của giặc Pháp, giặc khách thương người nước Thanh và giặc miệng?
Có một điều rất giản dị là, muốn bình phẩm, tâu hặc, xét xử, kết tội một người nào đó, người ta cần phải có tang chứng (vật chứng xác định tình trạng phạm tội), nhất là vật chứng quả tang và nhân chứng quả tang. Không bắt được, nắm được quả tang (ngay đang lúc phạm tội), thiếu tang chứng xác thực có kiểm nghiệm (sau quá trình thu thập, điều tra), thì không một ai (từ người thường dân cho đến quan án sát, thượng thư Bộ Hình) có quyền bình phẩm, tâu hặc, xét xử, kết tội người khác. Nếu ai cũng hiểu và đều tuân thủ nguyên tắc sống đã trở thành luật định đó, thì trần gian này không còn chỗ tồn tại cho lời gièm, sự vu khống, xúc xiểm. Nhờ vậy, trần gian này cũng bớt hẳn oan khiên.
Tâu hặc từ rất lâu là một trách nhiệm, nghĩa vụ và đồng thời là một quyền. Tâu hặc với nghĩa xác định như thế, đã được thể chế hoá thành cơ chế và đã trở thành nền nếp. Thượng thư Bộ Lại kiêm quản Quốc tử giám, đại thần Viện – Bạc Nguyễn Tư Giản bị cách chức, cho ra Sơn phòng Chương Đức khẩn hoang, cũng do sự tâu hặc có tang chứng, vật chứng, nhân chứng. Thượng thư Bộ Hình kiêm quản Bộ Lại, sung Cơ mật viện – Thương bạc Trần Bình chẳng bị tâu hặc chính xác về tội chấm thi ám muội nên ông ta bị rơi chức, cho làm việc chuộc tội ở Sử quán như một viên thư lại là gì? Hai chính khanh đồng thời là đại thần Viện – Bạc Hoàng Trọng Tuyển, Lê Bá Thận đâu phải không bị pháp luật trừng trị! Thậm chí Lê Bá Thận, sau khi lâm bệnh nặng trong lao tù, được tạm tha về để chữa bệnh, nay vừa mới chết tại nhà! Và một số hoàng tử, công tử khác, như Hồng Hoài, Tôn Thất Sở, Hồng Diêu (221), cũng không thoát khỏi luật pháp, bị kết án ở mức tử hình (trảm quyết, trảm giam hậu), kể cả Hồng Đình (Kì Anh quận công Hồng Đĩnh) (222) trước đây, đã bị giáng tước, khi luật pháp được xác định bất vị thân. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường không trách Tôn Thất Thuyết tâu hặc ông, chỉ buồn là tâu hặc không có cơ sở, hoàn toàn thiếu chứng cứ. Vua Tự Đức đã ra dụ chỉ rõ: “Thuyết ít học, không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể. Lời đồn ở kinh đô cũng không có căn cứ” và xác định đó chỉ là lời gièm. Nói càn, không có căn cứ, nếu kể cả hai chữ ”không thông [hiểu]” , đúng là những lời trách cứ nặng nhưng không quá đáng về Tôn Thất Thuyết.
Với thượng thư Nguyễn Văn Tường, ông quá hiểu tính cách Tôn Thất Thuyết và có thể thống kê các biểu hiện, nhận định về Tôn Thất Thuyết qua nhiều năm tháng, của nhiều người cùng thời đáng tin cậy (nhất là những bản dụ của vua Tự Đức, một người vốn ưu ái Tôn Thất Thuyết, chứ không phải những lời gièm về Tôn Thất Thuyết của kẻ xấu, kẻ thù (223)). Một vị tướng tài năng, nghiêm khắc, không một phút nguôi quên lòng căm thù giặc Pháp xâm lược, nhưng lại có tật nói càn (nói bừa do nóng tính, chứ không vì ác ý thâm độc), đó là hiệp đốc Tôn Thất Thuyết. Thượng thư Nguyễn Văn Tường chỉ buồn cho tật nói càn nông nổi, hồ đồ ấy của vị tướng thuộc tôn thất này.
Tên khâm sứ thực dân Rheinart vừa vu khống cả Viện – Bạc, hồi tháng tư, năm Tự Đức thứ ba mươi ba (1880), y đâu phải không chính là kẻ khởi xướng chiến dịch bôi nhọ để triệt hạ đang tiếp tục xảy ra!
Trong cuộc chiến ngoại giao, ngoại thương không tiếng súng đang diễn ra trong lòng Đất nước và từ ngoài biên giới ở giai đoạn gần đây, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường tự nhủ cần phải bình tĩnh. Tiền sềnh! Tiền giả! Tiền sềnh! Tiền giả! Quốc nạn “tiền sềnh! tiền giả!”, thực trạng vẫn còn đó, nhà vua, đình thần, các quan tỉnh vẫn còn đó, các sắc dụ, tập tâu, bản sớ vẫn còn đó, để Tôn Thất Thuyết tìm hiểu, điều tra.
Quốc nạn tiền sềnh (tiền giả) với riêng thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường còn là một nỗi đau, ấy là nỗi đau khi thấy Tôn Thất Thuyết bị rơi vào quỷ kế xúc xiểm để li gián của giặc Pháp, giặc khách thương người nước Thanh và giặc miệng, mà chính ông là người bị chúng quyết tâm “bắn hạ” một phần qua bàn tay Tôn Thất Thuyết. Xét cho cùng, cả thượng thư Nguyễn Văn Tường lẫn hiệp đốc Tôn Thất Thuyết đều bị triệt hạ. Nguyễn Văn Tường bị mất uy tín bởi Tôn Thất Thuyết mắc mưu giặc, Tôn Thất Thuyết mất uy tín vì bị kết luận là “ít học, không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể” . Và nhân dân Huế cũng không lẽ không đau xót khi vua Tự Đức nhận định: “Lời đồn ở kinh đô cũng không có căn cứ” , là lời gièm!
Tình trạng tiền sềnh (tiền dị dạng) là một nỗi đau lớn. Hiểu vậy, nên thượng thư Nguyễn Văn Tường rất thấm thía nỗi đau và càng căm hận những kẻ thù: số khách thương người Thanh gian xảo, giặc Pháp và bọn giặc miệng. Bọn giặc miệng là ai vậy? Giáo dân “tả đạo” tại kinh đô Huế!
Dẫu sao, vẫn phải tiếp tục công việc.
“Vua cho là chi tiêu cho quân thứ các tỉnh biên giới phía bắc, dùng bạc khá nhiều; nếu chỉ trích [ra để chi tiêu] bằng bạc đồng, cũng khó kế tiếp, sai Bộ Hộ dự tính. Quan Bộ Hộ tâu xin: “Ở trung châu từ Thanh Hoá trở ra Bắc, đều thu gấp tiền thuế mùa đông năm nay, lượng để đủ chi, còn thì phái mua bạc đĩnh, bạc lạng, bạc đồng [(bạc được đúc thành từng đĩnh, từng lạng, từng đồng) để] cất vào kho, và thông sức cho người lãnh trưng […] vào cửa quan: Người nào trưng, trước nộp bằng tiền, và [cả] tiền thuế các tỉnh hạt mùa đông này phải nộp [cũng vậy], đều được mua bạc nộp thay thế, để phòng trích cấp chi phí việc quan và tải về kinh phụng nộp”. Vua nghe theo” (224) .
Khuyến khích nộp thuế theo kì hạn và thuế lãnh trưng bằng các dạng tiền tệ vốn đúc từ kim loại bạc là một cách đối phó với nạn tiền sềnh đã trở thành quốc nạn.
Tiền giả! Tiền sềnh! Tiền giả! Tiền sềnh!
Sự thể đau lòng, nhức óc đó vẫn còn là một quốc nạn khó bề dập tắt, mãi cho đến những năm sau, lúc Tôn Thất Thuyết đã là phụ chính đại thần, ông cũng đành bó tay (225)! Đó là lúc Tôn Thất Thuyết đã hiểu Nguyễn Văn Tường, theo nhận định của chính Tôn Thất Thuyết, là “bậc nho tướng, đại trí”, đã đồng tâm nhất trí với Nguyễn Văn Tường trong kế hoạch và mục tiêu chủ chiến, đánh đi đôi với đàm. Tuy nhiên, đến lúc ấy, Tôn Thất Thuyết cũng như Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, đều đành bó tay trước nạn tiền sềnh, sau nhiều biện pháp cực mạnh (226)!
Đất nước ta đã bị tấn công bằng vũ khí tiền tệ, bằng sự phá rối tiền tệ của giặc ngoại xâm! Mặt trận tài chính thật không đơn giản. Đồng tiền có ma lực của nó, cũng như “chất độc tả đạo”, đã tạo nên một lực lượng nội phản ngay chính trong nhân dân và quan lại. Nhưng khác nhau về chất! “Tả đạo” vốn có ý thức chính trị xuẩn động, “tiền sềnh” chỉ do lòng hám lợi, mê muội, vô hình trung tiếp tay cho kẻ thù, gây rối loạn tiền tệ, thị trường thương mại, đời sống xã hội.

17

Thương ước Giáp tuất là một cưỡng ước. Trong thế chẳng đặng đừng, khi thực dân Pháp cố tình gây biến ở Hà Nội và các tỉnh khác thuộc châu thổ sông Hồng, triều đình buộc lòng phải kí kết “hoà” ước và sau đó là thương ước với Pháp. Sự thể đã như vậy, phải làm thế nào để đừng bị Pháp lấn lướt, áp chế? Không cách nào khác là phải cố vượt lên thách thức. Các quan ở các sở thương chính mới được thành lập phải tập dượt trong việc phối hợp với Pháp để mở cửa biển đón các tàu thuyền Âu Mỹ và cả khách buôn quen thuộc từ nước Thanh. Thương ước giữa nước ta với Tây Ban Nha cũng là một bước phải giành thế chủ động trong thế bị động. Tuy nhiên, thương ước với Tây Ban Nha vẫn bị thực dân Pháp cạnh tranh để chúng có thể giành vai trò độc quyền.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường vừa làm việc ở bộ, nhưng cũng đồng thời là Thương bạc đại thần và đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc. Đây là ba công tác có thể giúp ông phối hợp ăn khớp để trở thành hầu như là một nguyên soái trên mặt trận ngoại thương, ngoại giao. Vị tướng trên trận địa thương chính ở Bắc Kì, nơi trở thành trung tâm điểm của cuộc chiến ấy, là Phạm Phú Thứ. Nguyễn Văn Tường bao quát toàn mặt trận, kể cả cửa biển Thi Nại (Bình Định), Đà Nẵng, và phối hợp đồng bộ với công tác ngoại giao ở Nha Thương bạc (tương đương với Bộ Ngoại giao của các nước). Tổng đốc Hải Dương – Quảng Yên kiêm tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ lãnh đạo trực tiếp chiến trường thương chính ở Bắc Kì. Cả hai vị quan này phải thường xuyên tâu báo lên vua và truyền đạt cho nhau những sắc dụ. Viện – Bạc, Trần Tiễn Thành và Nguyễn Văn Tường cùng các đại thần khác (Nguyễn Tư Giản, Lê Bá Thận, Trần Bình, Hoàng Trọng Tuyển, Nguyễn Tăng Doãn, Phạm Thận Duật, Nguyễn Chính [Chánh], thay thế nhau) là cơ quan tư vấn cho nhà vua các quyết định cụ thể và các quyết sách lớn.
Cơ chế lãnh đạo, điều hành bấy giờ là: nhà vua tập trung hết quyền lực vào tay, nhưng với sự tư vấn, đình nghị thường là có tính quyết định của các đại thần tại triều và sự chỉ đạo trực tiếp ở Bắc Kì của Phạm Phú Thứ, cùng chức năng đều kiêm quản việc thương chính của các viên quan tỉnh (227) như tổng đốc Hà – Ninh Trần Đình Túc, tuần vũ Hà Nội Trần Hy Tăng (mấy năm sau là Nguyễn Hữu Độ) (227)… Trong cơ chế ấy, ở thời đoạn này, tất cả, từ vua đến quan, đều phải vượt lên thách thức trong thế chẳng đặng đừng phải thực thi việc triển khai thương ước đó.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường xác định cho mình rằng, thời thế vốn dĩ phải mở cửa khẩu ở miền biển để thông thương với năm châu bốn bể lẽ ra là phải từ lâu, dăm bảy chục năm trước (thời tiên đế Gia Long, Minh Mạng). Bấy giờ, hẳn chủ động hơn. Nhưng trước đó vài thập niên, trong nước lại nội chiến (Tây Sơn…) như một tất yếu lịch sử để thống nhất hai miền, Đàng Trong – Đàng Ngoài. Đến lúc này, mở các cửa biển là đã muộn, lại thất thế vì chiến bại, nội lực suy yếu nghiêm trọng, trong khi đó lực lượng ngoại xâm đã mạnh lại liên minh, cấu kết với nhau. Thật hoàn toàn thất thế, bất lợi.
Còn thực chất nội lực nước ta? Sức ì kinh niên của ta vốn do nền văn minh lúa nước quy định, rõ là khác với tính luân lưu xuôi ngược chân trời góc bể của dân Âu Mỹ (Pháp, Đức, Nga, Mỹ…), vốn thuộc văn hoá du mục, và dân hải đảo (như Anh…), vốn mạnh về tàu thuyền hàng hải. Sức ì đó còn do chính sách “trọng nông ức thương”, coi khinh con buôn các loại. Thậm chí lấy chính sách “trọng nông ức thương”, chẳng khác gì giam giữ nhân dân trên mảnh ruộng quê, để làm biện pháp để bảo vệ an ninh Đất nước!
Sức ì kinh niên, bị bó buộc rồi tự bó buộc chân người một chỗ với cánh đồng, luỹ tre làng, ít đi đây đi đó, đến thời đoạn hiện nay, lại cộng với tâm lí co lại kiểu con nhím, tâm lí rúc đầu xuống cát của con đà điểu trước sự tấn công của giặc Pháp trên mọi lĩnh vực, quả thật, đó là lực cản nội tại, nên rất khó vượt được thử thách này, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trên mặt trận ngoại thương. Và do đó, với tâm lí tự vệ và chỉ đủ sức để tính chuyện tự vệ, nên hầu như chỉ chú trọng vào việc ngăn chận sự bóc lột quá đáng của “kẻ mạnh” trong thương chính (thuế đoan hải quan).
Về thương chính, một loạt các cuộc bàn luận và các bản định lệ, điều chỉnh, bổ cứu định lệ trong công tác biên thu thuế hải quan được ban hành để ngày càng sát hợp với tình hình thực tế.
Về ngoại thương, quả là thực trạng sức ì đúng như thế. Tuy vậy, dẫu sao, vẫn có sự ra sức vượt thắng thực trạng. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường vừa vui mừng vừa lo âu khi cùng Viện – Bạc và đình thần hội bàn về việc khuyến khích thương nhân nước ta ra buôn bán ở nước ngoài. Trước hết, phải thảo luận để bỏ lệ cấm dân mình về lĩnh vực ngoại thương, xuất nhập cảng ấy.
“Bỏ lệ cấm xuống biển đi buôn.
Khi ấy, đình thần theo nghị cho là khoảng năm Gia Long, Minh Mệnh xuống biển đi buôn có điều cấm (thuyền và hàng sung công, kẻ buôn gian [bị] phạt một trăm [100] trượng, lưu ba ngàn [3.000] dặm). Vì buổi đầu đặt ra pháp luật sợ là có kẻ buôn gian vượt biển, hoặc nhân đấy mà tiết lộ sự cơ. Phòng sự bất ngờ cố nhiên càng phải cẩn thận. Duy thời thế mỗi khác, cũng nên thông biến.
Hiện nay, việc buôn mở mang thi hành, chính là lúc trăm mối lợi phải thịnh. Huống chi núi rừng nước ta sản xuất nhiều của quý lạ (như loại: tơ, bông, vải, lụa, kì nam, quế, đồng, sắt, gỗ lim và nâu) cũng là vật ở các nước tất phải mua. Từ trước đến nay, dân ta chỉ buôn bán trong nước, lợi thu về có hạn, mà thuyền buôn nước Thanh, nước Tây vào cửa biển nước ta thu mua hàng hoá bán cho nước ngoài, được rất nhiều lợi. Thế là đồ vật của cải sinh ra ở nước ta, bị chúng cướp lấy lợi. Dân ta [bị] bó buộc về pháp luật ngăn cấm, lại không được nắm lấy lợi quyền, của cải càng quẫn thiếu. Nay xin chuẩn cho tha cấm đi buôn để mở đường lợi, cũng là một việc làm lợi cho dân. Từ sau, xin cho dân tuỳ theo vốn liếng, hoặc góp vốn lãnh thẻ bài thuyền đến nước ngoài đi buôn. Các thuyền buôn ấy bắt đầu chở hàng từ tỉnh nào, do tỉnh ấy cho giấy, rồi chiểu giá hàng hoá thu thuế trăm phần lấy năm phần (5%). Nếu có chở vật cấm ra biển đi buôn (như quân khí, súng đạn và các người đàn bà, con gái nước ta) và trốn thuế, sinh sự thì chiểu theo nghị định Minh Mệnh năm thứ chín (IX) xử tội.
Vua nghe theo” (228)
.
Đó là bản tấu đình nghị từ tháng ba, năm Tự Đức thứ hai mươi chín (1876).
Sau hai năm rưỡi triển khai, sức ì kinh niên vẫn chưa thể khắc phục nổi trong tình hình ngoại xâm và nội tình với binh lực như thế. Một hôm, vào tháng mười, năm Tự Đức thứ ba mươi mốt (1878), vua Tự Đức xem nhật báo Hương Cảng tân văn. Trong số báo ấy, có bài bàn về những việc cốt yếu để làm cho dân giàu nước mạnh, đặc biệt là mở rộng thông thương và chống “kẻ dám khinh” bằng cách:
- Đóng tàu (thuỷ, hoả)
- Học tiếng nước ngoài
- Đúc súng đạn
- Luyện tập quân đội
Vua Tự Đức muốn thi hành, bèn sai quan Viện Cơ mật xét nghĩ. Viện Cơ mật lúc này chỉ còn ba đại thần: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn.
Bản tấu trình dâng lên:
““Thông thương là việc rất cần kíp, duy chỉ nước khác làm thì dễ mà ta làm thì khó, vì các dân châu Âu phần nhiều theo nghề buôn, lại khéo đi biển. Những nơi biển rộng đảo xa, không chỗ nào là không đi đến. Đi đến đâu, [họ] lấy mới lạ làm thân thiết, cho nên kéo cả bọn đến được. Nước ta từ trước cấm ra nước ngoài, dân không đi buôn xa, trong nước không có bọn buôn, mà muốn dắt người buôn nước ngoài đến, thế chưa thể vội được. Huống chi tục pháp cả Phương Tây đều cấm quan buôn, ta nếu đặt cửa hàng ở Hương Cảng, không những người được phái đi thực, sinh ra nhiều chi tiết, mà các nước nghe thấy, lại sợ là có liên quan đến sự thể.
Nhưng nay cửa ngõ đã mở ra, họ đến mà mình không đi, thì tình tục không thông, các việc thường khó nghĩ định. Xin do các địa phương đều thông sức cho trong hạt, không cứ người nước Thanh hay người Kinh, người nào có vật lực, tình nguyện đóng tàu đi đến Hương Cảng lập công ti để buôn bán thì đều cho trình quan chuẩn cho. Có người buôn nước ta ở đấy, thì thuyền công của ta có thể mượn cớ đến đóng mà lấy việc đóng tàu, đúc súng, học tiếng, luyện tập quân đều là việc cốt yếu.
Duy mưu tính trước thì khó, mà đổi mới phong tục tất phải dần dần. Nước ta được yên [:tĩnh, không đi đây chuyển đó] lâu ngày, người muốn tạm yên, lòng mở mang thì ít, ý trốn tránh thì nhiều. Nay thay đổi hết, thực khó như ý, tức như chọn người phái sung làm việc ở thuyền, không nói là thuyền hỏng, thì nói là máy liệt, để cầu [mong] đỗ [bến] lâu; tài liệu trong thuyền không chịu sửa sang, muốn cho chóng hỏng, [để] may được dời đi chỗ khác; súng đạn tặng giao cho, không có thời thường luyện tập, liền sửa sang lại sợ cũng sẽ bị rỉ hỏng; súng điểu thương mở đằng bụng chia giao cho các tỉnh, cũng muốn trả về. Tình hình ấy đã thấy có.
Còn học chữ và tiếng nói [nước ngoài], ta đã thi hành, vẫn chưa thấy có công hiệu, hay là cũng do sự kén chọn khinh thường mà học thì ít. Xin thông sức cho các địa phương hết lòng hiểu dụ để mộ lấy người, không cứ là cử nhân, tú tài, học sinh, khoá sinh và con em các quan viên, trên dưới hai mươi (20) tuổi, người nào thông nghĩa sách, biết chữ mà tình nguyện đi sang Tây, cấp cho tiền lệ phí, nhưng hạn cho năm (05) năm, [khi] về, sát hạch. Nếu thành tài thì chiểu lệ cử tú bổ làm quan [mà] bổ dụng (nếu học được chữ, tiếng một nước và một nghề như đóng tàu, đúc súng, các đồ binh khí, khai mỏ, luyện tập quân, thì chiểu lệ tú tài hạch trúng bổ cửu phẩm; học được chữ, tiếng hai nước và hai nghề, chiểu lệ cử nhân không phân số; học được chữ, tiếng ba nước và ba nghề, chiểu lệ cử nhân có phân số, bổ làm quan ngay). Nhưng đều cho làm quan theo nghề của mình, để cho được thạo việc. Sau có cố gắng làm được việc, thì thăng lên cũng giống như lệ các nha nhiều việc, ít việc, ngõ hầu hoặc có nhiều người muốn đi học mà có thể đủ dùng được. Lại các khoản ấy xin hãy hoãn lại, đợi kì sang cống nước Thanh, nên làm thế nào, sẽ tâu lên, tiệân cho sứ thần tuỳ cơ liệu làm”.
Vua cho là phải, nhưng chuẩn cho việc học chữ và tiếng [nước ngoài] thì lục sức thi hành ngay” (229)
.
Ngoài các khó khăn, trở lực, lại còn một trở lực, khó khăn khác: lệ thuộc nước Tàu nhà Thanh!
Thật ra, đó là với những người trẻ tuổi, còn với các quan tại chức, từ tháng hai năm thứ ba mươi mốt (1878), triều đình đã cấp tiền hàng tháng cho Nha Thương chính học chữ Tây (230). Tháng tư, năm ấy, vua chính thức chuẩn y việc mở trường học chữ Tây cho Nha Thương chính Hải Dương (231).
Sau bản tấu trên của Viện Cơ mật, đến tháng sáu, năm thứ ba mươi hai (1879), lại có cuộc xét người đi học chữ Tây, công nghệ Tây (232).
Về công nghệ, tháng tám nguyệt lịch năm thứ ba mươi (1877), Nguyễn Thành Ý với công tác đem các đồ thủ công mĩ nghệ danh tiếng của nước ta sang Pháp đấu xảo (tham dự hội chợ thi đua kĩ nghệ) (233). Đó là một dịp tận mắt nhìn và học thêm kĩ nghệ, nhất là kĩ nghệ cơ khí nước người. Nguyễn Thành Ý đã cùng sứ bộ sang Pháp, Tây Ban Nha (233). Đến tháng giêng năm ba mươi hai (1879), Nguyễn Thành Ý lại đưa người sang học tập công nghệ Tây dương ở cửa biển Thu Long (234). Lần này, lại biểu lộ ra một nhược điểm sĩ diện hão của người Việt mình và của Viện Cơ mật – Thương bạc: quan dẫn người đi học tập công nghệ, sợ mất quan cách (bởi Pháp và những viên lãnh sự các nước đã biết mặt Nguyễn Thành Ý với tư cách một lãnh sự khâm phái, nay lại ông ấy lại phải bạn bè với học trò đi học kĩ thuật cơ khí, sợ mất tư cách quan chức, thể diện)! Vua trách: Người Tây “hết quan hoàn dân”, cũng buôn bán, làm nghề khác, và đến thánh nhân như Lão, Khổng cũng làm nhân viên cấp thấp, có gì nhục đâu! Huống nữa, việc nào cũng là việc công! Tháng tư (1879), khi ra dụ khuyến khích tiến cử hiền tài, định phép thi, vua Tự Đức đặc biệt nhấn mạnh sự lưu ý việc tiến cử, tuyển chọn phải nhắm đến những người am hiểu tình hình quốc tế và công kĩ nghệ (235).
Riêng đối với thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường, ông cùng các quan trong bộ đã tấu trình lên vua phương pháp nhiếp ảnh, lại xin chuẩn cho xây dựng hiệu nhiếp ảnh cạnh Nha Thương bạc (236). Trương Văn Sán (236), vừa học ở bên Tây về, là người đầu tiên trên đất kinh đô mở hiệu nhiếp ảnh. Ông nghĩ rằng dẫu sao đó cũng là một ngành nghề kĩ thuật dân dụng mới cần được phát triển.
Sự canh tân trong thực tế là quá nhỏ so với nhu cầu của Đất nước và yêu cầu đặt ra.
Trong thực tế vẫn còn rất nhiều trở lực ngay từ chính người Pháp, thậm chí chúng còn cản trở triều đình trong việc cử người đi học công nghệ cơ khí mới và học ngoại ngữ. Thực sự, dã tâm của chúng là vẫn luôn cố sức bao vây, cấm vận ta. Chúng muốn độc quyền trên mọi lĩnh vực.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường đành tạm quay vào với những gì chỉ cần đến khả năng nội lực và sự quyết tâm của vua quan, sĩ dân trong nước để thúc đẩy sự canh tân. Ông phụ trách Bộ Hộ, vừa phải lo việc thương chính, vừa quản lí cả việc tào chính. Tào chính là công tác vận tải. Ở nước ta, bờ biển dài suốt chiều dài Đất nước, rất thuận lợi cho tàu thuyền đường biển. Nhưng khốn nỗi, trong ba chục năm qua, nạn hải tặc tăng lên đến mức khủng khiếp. Bọn sống bằng nghề đánh cướp trên biển chủ yếu là người Hoa, vũ khí trang bị cũng ngang bằng hoặc hơn cả quân binh triều đình. Thượng thư Nguyễn Văn Tường thấy cần phải khoi đào một vài đoạn sông để từ Quảng Trị ra Bắc Kì, Đất nước ta sẽ có một đường sông xuyên Việt. Đường sông xuyên Việt sẽ rất thuận lợi cho việc chuyên chở của Nha Tào chính và của nhân dân, nhất là tiện lợi cho nhu cầu đi lại bằng thuyền nhỏ, lại tránh được nạn cướp biển rất khó thanh toán gọn, tiêu diệt sạch. Đó là chưa kể ghe thuyền, tàu hơi nước và tàu buồm bị đắm bởi gió bão. Mục tổng kết mỗi cuối năm của Bộ Hộ về tai nạn đường biển là rất lớn, rất đỗi đau lòng! Với kế hoạch mở đường sông xuyên Việt ấy, thượng thư Nguyễn Văn Tường viết bản sớ tâu lên vua Tự Đức:
“Việc vận tải là việc lớn, dư dật hay thiếu thốn quan hệ ở đó. Những thứ ăn mặc và đồ dùng ở kinh sư, phần nhiều sản xuất ở Nam Kì, Bắc Kì. Hàng năm vận tải, nhân giặc [biển], nhân gió [bão], tổn hại ở đường biển không biết bao nhiêu. Hiện nay, vời thuê thuyền nước Thanh, hình như là kế trước mắt, mà không phải là cách lâu dài.
Thế núi ở nước ta từ tây bắc kéo đến. Nước theo núi mà chảy về phương nam làm [nên] sông Cửu Long thì đã về sau dãy núi [Trường Sơn], còn như phía trước núi [Trường Sơn] thì đoạn ấy, đoạn khác, [sông] đều đổ ra biển mà chắn ngang. Đường nước [:đường thuỷ] chưa thông, việc buôn bán, vận tải không ổn. Đó là tạo hoá đợi người để làm. Người trước đã kinh lí nhiều, mà chưa thành công là vì làm nên lợi nghìn muôn năm, không phải một người, một đời mà làm được. Nay đường biển chưa yên ổn thì việc đào sông so với trước càng khẩn thiết lắm. Xét ra, từ tỉnh Quảng Nam trở vào nam đến tỉnh Bình Thuận, thế núi mạnh và cao, mà nước nguồn thì chảy chậm, làm việc [khoi đào] rất khó. Xin hãy để đó rồi tính sau. Duy có từ tỉnh Quảng Trị trở ra bắc, gián hoặc có chỗ đường nước không thông:
- Một đoạn từ sông Minh Lương (thuộc tỉnh Quảng Trị) đến sông Nhật Lệ (thuộc tỉnh Quảng Bình) là [nơi đặt] trạm Hồ Xá, trong đó có núi bằng ngang qua, đi đường bộ phải suốt ngày đường. [Đoạn này] trước có sông cũ, nay bị cát lấp.
- Một đoạn từ bến sông Nhật Lệ đến sông Linh Giang (cũng thuộc Quảng Bình), đi đường bộ gần một ngày. Nguyên không có sông cũ. Trong đó có một dải núi thẳng đến biển. [Nếu] tuỳ thế [núi], làm việc [khoi đào], lâu cũng có thể khoi thông được.
- Một đoạn từ thượng lưu sông Linh Giang [sông Gianh], chỗ chia dòng sông [ở] xã Minh Cầm: một đằng giáp với sông mới đào (từ đấy trở ra bắc, thuyền bè đều đi thông được) [ở] huyện Kỳ Anh thuộc Hà Tĩnh, đi đường bộ phỏng ba ngày đường; một đằng giáp giáp với đầu nguồn sông Lam Giang (thuộc Nghệ An), đường đi phỏng hai ngày rưỡi
. { { Xin lưu ý: Chỗ chia dòng sông [ở] xã Minh Cầm [như đã nói], một đằng giáp với sông mới đào; từ đấy trở ra bắc, thuyền bè đều đi thông được } }.
Tính suốt cả ba đoạn, ước trên dưới ba, bốn ngày đường. Trong đó, [đoạn] từ sông Linh Giang suốt đến hai tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An, đoạn ấy có núi non ghềnh đá, tất phải khó nhọc, phí tổn nhiều. Kể thì mưu việc lớn, không kể phí tổn nhỏ; làm việc lâu dài, không vội chóng xong. Người nước Tây đào sông Đại Lãng, người nước Thanh đào sông Linh Cừ, việc khó khăn, phí tổn gấp đôi, mà đều chỉ lấy kiên nhẫn mà làm được. Như biển Thiết Cảng [Cửa Sắt] ở nước ta, từ xưa cũng cho là khó, mà nay khai thông được, thì ở nơi khác hết sức mà mưu tính, tưởng cũng có thể được thành công. Nếu muốn chứa vào kho được dư dụ, đề phòng trước khi có việc, không khoi sông thì không có kế gì khác.
Xin phái người thổ trước [:người địa phương lâu đời] hội đồng với quan tỉnh khám xét để thi hành” (237)
.
Việc mở đường sông xuyên Việt ấy đã tâu lên vua. Vua bảo trước kia Hoàng Tá Viêm cũng muốn thế. Đó chính là lúc bang biện khâm phái Nguyễn Văn Tường đang ở huyện Thành Hoá, ông đã tâu xin, được chuẩn y, đang phối hợp với quan tỉnh Nghệ – Tĩnh Hoàng Tá Viêm tiến hành mở đường Trường Sơn (thượng đạo xuyên Việt), nối Tây Sơn (Bình Định) với Nghệ An. Lần này, ý tưởng về đường thuỷ xuyên Việt, vua lại cho hữu tham tri Bộ Hình Phan Sĩ Thục, viên ngoại lang Bộ Hộ Lê Đĩnh đi khảo sát thực địa theo bản sớ Nguyễn Văn Tường ở ba đoạn khó đào. Sau đó, phải đình lại, vì đoàn du khảo của triều đình kết luận: “Có nhiều chỗ không thể làm được” (237) .
Đó là một kế hoạch cũng có thể gọi là canh tân, cho dù đào sông không phải là việc mới mẻ, để khắc phục những trở ngại cho việc vận tải và đi lại bằng đường sông. Thử tưởng tượng nước ta có một đường thuỷ xuyên Việt thật tiện lợi và đẹp như thế! Nhưng cũng đành rất tiếc phải gác lại. Quả là “lực bất tòng tâm” (sức không theo kịp lòng mong muốn)!
Trong khi đó, tham vọng xâm lược, cướp bóc của Pháp ngày càng lộ rõ.
“Hoà” ước, thương ước Giáp tuất là một bước lùi của Pháp để chúng thăm dò, điều tra, đo lường địa hình, địa vật, tài nguyên và văn hoá, nhất là nhân dân Bắc Kì, dưới lớp vỏ thương mại, khai khoáng và “du khảo bác vật”.
Pháp tự đẩy mạnh việc thám xét các mỏ khoáng sản. Có mỏ chúng phải đành cùng với ta khai thác, như mỏ than chẳng hạn. Ngoài ra, Pháp còn muốn ta xuất cảng gỗ lim, tơ sống và gạo. Nhất là gạo, bất chấp nạn đói của nhân dân nước ta, Pháp luôn yêu sách ta phải xuất cảng nhu yếu phẩm này. Văn thư yêu sách ấy gửi đến Nha Thương bạc ở Huế và ngay Nha Thương chính ở Hải Dương, Hà Nội, có thể nói là liên tục. Trong khi đó, tháng hai năm Canh thìn (1880), nạn đói ở Bắc Kì xảy ra trầm trọng (238). Bảy huyện thượng du Hải Dương đói, Hà Nội đói, Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên… có nhiều người chết đói (238). Nghệ An cũng bị rơi vào nạn đói (238). Và gạo rất cần để chẩn cấp cho kinh đô Huế, Quảng Trị. Quảng Trị sau mười mấy năm, đổi từ tỉnh thành đạo (một đơn vị hành chính nhỏ hơn tỉnh), thuộc phủ Thừa Thiên, mới trở lại là một tỉnh từ cuối năm hai mươi tám (1875). Vào đầu năm ba mươi (1877), Quảng Trị cùng Thừa Thiên chịu cảnh đói kém bởi thiên tai. Riêng Cam Lộ, thổ dân rất gieo neo, Sơn phòng sứ Phan Khắc Kiệm phải tâu xin chẩn cấp, và thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường không thể không lo toan cho vùng đất “sinh điểm”, “tử điểm” của kinh đô, như thể quê nhà ấy. Quảng Trị, một tỉnh hiện vẫn cần chẩn cấp, vì nạn đói đang diễn ra, trong lúc mới vừa thoát ra khỏi nạn dịch bệnh kéo dài trong hai năm qua, từ năm Tự Đức thứ hai mươi chín đến ba mươi (1876 – 1877). Hai năm ấy, riêng phủ Triệu Phong (nhất là hai huyện Hải Lăng, Minh Chính), có tới bốn ngàn hai trăm ba mươi sáu (4.236) người bị thiệt mạng! Nạn đói còn xảy ra ở Bình Định, Phú Yên nữa, cấp bách đến mức vua Tự Đức trách dỗi các quan Bộ Hộ vì chưa kịp chẩn cứu! (239).
Tất nhiên Nha Thương bạc, Nha Thương chính từ chối mạnh mẽ, cứng rắn, nhưng cũng có khi phải nhân nhượng một vài tháng hoặc dùng biện pháp nâng cao giá gạo để ngăn cản bớt sự xuất cảng loại hàng hoá nhu yếu đó.
Ngay từ đầu, tướng Pháp tại Gia Định gửi văn thư cho rằng Phạm Phú Thứ “không có lòng tốt”. Hoá ra, không phải là “sự giao hảo” trong ngoại giao, mà một trong những cái khiến chúng cho là thế, chính là gạo. Nhưng rồi đến tháng sáu năm Tự Đức thứ ba mươi mốt (1878), Phạm Phú Thứ lại phải tâu xin cho xuất khẩu gạo trong một tháng. Đình thần, Viện – Bạc và cả nhà vua đều không thể cho (240).
Tháng tư, năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879), Bộ Hộ xin định lại điều lệ cấm xuất khẩu gạo ở Bắc Kì (241). Khi sắc dụ ban ra, người ta đọc thấy một điều đáng buồn là chính người buôn tham lợi và quan tỉnh dung túng (241)! Sự dung túng ấy hẳn do tham ô, hối lộ! Dẫu sao, bản dụ vẫn khẳng định nhất quyết cấm như lệ định. Cũng ngay trong tháng đó, tổng đốc Hải – Yên kiêm tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ liền mật tâu về việc người buôn Tây dương, khách thương nước Thanh, và cả bọn Hán gian (Hoa kiều) mưu toan gây biến ở Bắc Kì một lần nữa!
Pháp chuẩn bị gây biến ở Bắc Kì một lần nữa?
Ngồi ở Viện Cơ mật – Thương bạc, thượng thư Nguyễn Văn Tường đọc đi đọc lại bản tấu của tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ. Từ rất lâu, không ai không biết lòng tham không đáy của Pháp! Ông không ngạc nhiên nhưng sao vẫn cảm thấy có gì hơi bất chợt và không thể không phẫn nộ.
“Tham biện Sở Thương chính là [linh mục] Nguyễn [Hữu] Cư trình bày: “Người buôn trước đây là Mô Răng Đi Ni (?) báo rằng: “Người buôn nước Tây và nước Thanh cho là nước ta cấm buôn nghiêm mật, [chúng] không được thung dung tự tiện, đều đem lòng oán giận. Có người nước [Đại Nam] này tự xưng là con cháu nhà Lê, nay hiện chiêu dụ người các tỉnh ở Bắc Kì, phò hắn làm minh chủ, ngầm hẹn với các nhà buôn, nếu giúp được nên việc, đều cho thung dung buôn bán. Các người buôn có nhiều hưởng ứng, đã góp lại hơn mười vạn (100.000) đồng bạc, ngầm về Hương Cảng đặt mua các cỗ súng, hẹn trong ba tháng thì khởi sự. [Chúng] từng dụ hắn vào bọn”, các lời như thế”. Tỉnh ấy đã hỏi ở dân gian, [thì] cũng có truyền ngôn ấy. [Thần] bàn với lãnh sự nước Tây, xét ý hắn, cũng lấy việc cấm [xuất cảng] gạo [mà] rất mang lòng bất bình. Xin châm chước bỏ việc cấm gạo độ hai, ba tháng, để yên lòng người phương xa [Tây dương, Hoa] mà hết [kẻ] thù hằn bên ngoài” (242) .
Vua Tự Đức vẫn cứ níu vào ảo tưởng, không chịu tin đó là sự thật! Nhà vua cầm bút châu phê:
“Tỉnh ấy từ trước đến nay, phần nhiều để hột gạo lọt ra ngoài. Nếu nay lệnh cấm gạo ban xuống, người buôn gian giảo mưu lợi, xướng lên lời nói không có căn cứ. [Như thế là] toàn do [tỉnh ấy] ngày thường làm việc không khéo, che giấu, dung túng, một khi sợ tội lại nói thác ra, để trút trách nhiệm…” (242) .
Khâm phái ngự sử Dương Quán bỗng tâu vào kinh:
“Hạt ấy có nhiều người buôn nước Thanh chở trộm gạo, giám đốc hải phòng Lương Văn Tiến (anh em ngoại của Phạm Phú Thứ) nhiều lần cậy thế tải gạo ra nước ngoài” (242) .
Vua liền cử Lê Điều đổi sung làm khâm sai điều tra sự việc. Trần Văn Úc lại được cử thêm, đi theo phụ tá.
Phạm Phú Thứ vẫn thông tư vào cho Viện Cơ mật:
“Lãnh sự nước Tây [:Pháp, Kergaradec] ở Hà Nội mưu tính lấy tỉnh thành; lại phái viên nước Tây là Công Tăng Tinh [Constantine] tập họp các người buôn, mua súng ống khí giới muốn sinh sự ở Bắc Kì; lại người buôn nước Tây thường viết thư kêu với tướng nước Pháp sớm muộn định lại thương ước” (242) .
Vua Tự Đức cho rằng Phạm Phú Thứ “vội nghe hoang báo”, “nhân [bị] lỗi, [nên] đem nhiều khoản để doạ triều đình” , và “giả sử có việc [Pháp chuẩn bị gây biến] ấy cũng phải làm cho ổn thoả. Nếu có hơi quá thẳng để tỏ lời mình là thực, thì phải [bị] xử tội theo luật khích biến” (242) .
Đó là bản tâu, bản thông tư từ hồi tháng tư năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879). Ngay sau đó, Viện Cơ mật – Thương bạc được chỉ dụ của vua viết thư hỏi tướng Pháp ở Gia Định, đề nghị trị tội tên Mô Răng Đi Ni. Y không trả lời! Bốn tháng sau, lại dò xem thái độ của tên tướng giặc ấy, coi thử y như thế nào trước văn thư báo cáo của Kergaradec và tin từ nhật báo mới đây. Kergaradec viết là nước ta cấm xuất cảng gạo, khách buôn rất oán, phải xử trí ngay thế nào, kẻo “trở ngại”! Nhật báo nước ngoài cũng đưa tin tương tự như thế, lại còn thêm một tin không đúng: chín (09) chiếc thuyền thuỷ lôi của Pháp đến nước ta để gây chiến (243). Văn thư của Thương bạc đã gửi đi (243).
Trước cách xử trí tình huống quá mềm dẻo và như thể còn nuôi ảo tưởng “hoà” của vua Tự Đức, Viện – Bạc phải tâu bày đề nghị biện pháp giải quyết:
“Tổng đốc Hải Dương là Phạm Phú Thứ với lãnh sự Pháp, tình không ưa nhau, đến nỗi có lời oán trách. [Tướng Pháp] bảo rằng: “Gạo bán ra, đối với người buôn phương Tây thì nghiêm cấm, mà đối với người buôn nước Thanh thì bỏ cấm. Ở cửa Ninh Hải thì nghiêm cấm, mà ở cửa Trà Lý thì cho riêng”. Xin nên chọn phái người khác để thay” (243) .
Nhà vua không chuẩn cho việc hoán chuyển, đổi Lê Điều (một người có tinh thần chống Pháp) ra Hải – Yên và triệu Phạm Phú Thứ vào kinh. Nhưng mật dụ quan họ Phạm phải làm “cho yên lòng người buôn, dập tắt lời vu vơ, không thế thì khép vào tội khiêu khích sinh ra biến mà xử trị” (243) !
Mặc dù Viện – Bạc nhận định là Phạm Phú Thứ và tướng Pháp không ưa nhau, nhưng ngay sau đó, cũng vào tháng tám năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879), đình thần lại căn cứ vào tập tâu khác của Phạm Phú Thứ về cách xử trí Lưu Vĩnh Phúc của ông ta để cho rằng hầu như xử trí như vậy là có lợi cho Pháp. Buổi đình nghị không chỉ bàn về tập tâu của Phạm Phú Thứ, mà còn của các quan viên khác. Ý kiến Phạm Phú Thứ trong sự đối sánh với các ý kiến của các quan khác, đình thần thấy rõ Phạm Phú Thứ lại gần gũi với tên cơ hội chủ nghĩa, “theo gió xoay buồm” Nguyễn Hữu Độ!
“Khi ấy, phái viên người Pháp cho là đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc đóng giữ ở Bảo Thắng, hại cho người đi buôn, xin bãi các tuần ti. Các quan tỉnh, quan ở quân thứ Bắc Kì cũng tâu bàn về công việc tuần ti và [cách] xử trí với đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc.
Tuần phủ Hà Nội là Nguyễn Hữu Độ xin bãi tuần ti mười ba (13) tỉnh, [để] chuyên do sở thương chính thu thuế.
Tổng đốc Hải Dương là Phạm Phú Thứ [tâu] xin: “Mỗi tỉnh đều đặt quan thu thuế, lại nghiêm cấm đoàn quân [Lưu] Vĩnh Phúc đi tống tiền nhà giàu. [Lưu Vĩnh Phúc nên] do quan thống đốc [Hoàng Tá Viêm] nghĩ dời [đoàn quân ấy] đến nơi khác, cấp phí tổn cho [để] khai mỏ ở Bảo Hà, Bảo Thắng, Hà Dương; nói với Pháp phái lính Tây đến đóng, để đường buôn bán được nghiêm. Cửa Trà Lý ở Nam Định thì đặt đồn lớn, phái nhiều quan quân làm việc thu thuế” .
Tuần phủ Hưng Hoá là Nguyễn Huy Kỷ nói triệt bỏ tuần ti, thì đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc không khỏi thất vọng.
Quan ở quân thứ là Hoàng Tá Viêm tâu xin: “ Đổi bổ [Lưu] Vĩnh Phúc làm đề đốc Cao – Lạng, [cho ông ta] dời đến đóng ở biên trấn ấy, nhưng lấy đất sở tại Ngân Sơn thuộc tỉnh Cao Bằng cho làm đất được ăn lộc, lại cấp vốn cho sự [sinh] sống để dành [giành? tranh thủ?] để dùng [ông ta] làm việc”.
Việc ấy giao xuống đình thần bàn, rồi nghị dâng lên:
“Đặt ra tuần ti, [ở] phương nam, phương bắc, [đều] có cả. Điển lệ nước ta ban hành đã lâu, không can gì đến hiệp ước buôn bán, họ [:Pháp] không nói thế nào để chia lợi được, cho nên [Pháp] mượn cớ là người đi buôn ở Bảo Thắng kêu khổ, tìm mối yêu cầu ta bãi [bỏ] đi, để thoả cái ý lúc [Pháp] mới đến [là] xin bỏ tuần ti.
Lưu Vĩnh Phúc tuy chưa thuần thục hẳn, nhưng từ khi chịu ta vỗ về đến giờ, [ông ta] hết sức lập công, đều vì thân mình không nghĩ gì về sau. Hắn đóng ở thượng du, người khác [:Pháp] vướng mắc, ta khéo vỗ về, [thì họ Lưu] có thể giúp sức được một cánh tay. Hắn đương lúc tiến thoái cùng đường, chưa dám làm bậy. Nay các tỉnh dâng sớ tâu, hoặc đem chức giữ của mình mà nói thiên một mặt (như tổng đốc Hải Dương, tuần phủ Hà Nội), hoặc khó giải quyết mà hư ứng (như tuần phủ Hưng Hoá), hoặc theo lời của tay buôn lão luyện mưu lợi (như Nguyễn Hữu Độ), tưởng đều là chưa định được toàn cục. Duy có viên thống đốc [Hoàng Tá Viêm] xin cho đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc đời đóng chỗ khác, giành [dành?] đấy để dùng sau này. Tuy đối với khoản tuần ti nên để hay bỏ, [Hoàng Tá Viêm] chưa có bàn nghĩ đến, nhưng về việc xử trí cho đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc [như vậy, là] hơi có đầu mối… […] …” (244)
.
Mặc dù đình thần xét rõ bản chất cố hữu của Lưu Vĩnh Phúc là phỉ, nhưng qua việc xét nghĩ các tập tâu xử trí về Lưu Vĩnh Phúc trước yêu sách thâm ác của Pháp, đình thần vẫn thấy Phạm Phú Thứ rất đáng trách phạt.
Trước đây, Phạm Phú Thứ lại phạm thêm một lỗi: ra lệnh cho dân đào sông, không cần tâu lên vua! Đây là một lỗi thuộc về lĩnh vực vi phạm kỉ cương, phép nước, khó lòng tha thứ (245)!
Tháng tám năm Canh thìn (1880) này, vua Tự Đức không cho Phạm Phú Thứ bái yết, mặc dù ông đã vào Huế lãnh án, đã bị buộc phải đóng cửa suy nghĩ về lỗi lầm của mình. Vua bảo: “[Phạm] Phú Thứ tuy có tài làm việc nhưng lòng quá thiên tư [:thiên vị], kiêu ngạo, phóng túng trái phép, không phải đạo nho thần. Ta thường răn bảo, không chịu sữa lỗi […]. Không đổi hết lỗi, tất không thể dùng được. Đó là tại mình tự bỏ, không phải triều đình bỏ” (246) .
Nhưng việc Phạm Phú Thứ tâu báo rằng Pháp chuẩn bị gây biến ở Bắc Kì, điều đó, quả thực, là đúng sự thật. Sự thật là chỉ sau năm năm (1874 – 1879), kể từ ngày kí kết “hoà” ước, thương ước Giáp tuất 1874, thực dân Pháp đã mưu toan xâm lược Bắc Kì như thế. Nhưng khổ nỗi, vua Tự Đức dẫu biết sự thật, vẫn sợ hãi sự thật, muốn chạy trốn sự thật, cứ cho đó là “hoang báo”, “đồn nhảm” , mong các quan cứ nhẫn nại để khỏi khích biến! Vua Tự Đức rơi vào tâm trạng của một người hoàn toàn bất lực trước nguy cơ hiểm hoạ, đành trốn vào ảo tưởng, mặc dù hiểu rõ đó là ảo tưởng!
Không phải chỉ đối với Phạm Phú Thứ, nhà vua trách mắng như vậy, mà khoảng một năm sau, đối với tất cả thành viên của Viện Cơ mật, Nha Thương bạc (Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Chính [Chánh], Phạm Thận Duật, Bùi Văn Dị [Bùi Ân Niên], Trần Thúc Nhẫn) và tham biện Nội các Đào Đăng Tiến [Đào Tấn], nhà vua cũng cho là toàn thể Viện – Bạc và một tham biện Nội các giao du với giặc nên nghe tin đồn nhảm, “tâu nhàm tai trẫm” (247) . Tất cả đều bị giáng hai cấp, cho lưu nhiệm. Chẳng biết những ai bị nhà vua gọi là “giặc”? Kẻ sĩ văn thân ở Huế, ở Bắc Kì chăng? Các quan ở Bắc vào, như Phạm Phú Thứ, đã nhìn rõ hoạt động chuẩn bị mưu toan xâm lược Bắc Kì lần thứ hai của Pháp là “giặc” chăng? Tuy vậy, không bao lâu, chính nhà vua lại phát biểu một điều mà hai chục năm trước nhà vua đã hiểu rất sâu sắc, thấm thía: “Mọi việc mượn nhờ người [Pháp], tóm lại như một giấc mơ mộng, không có kì nào được nên việc” (248), “Trước sau, Pháp chỉ muốn đem chữ “hoà” để đánh lừa ta chăng!” (249) .


Hết tệp 14
(phân đoạn 6 truyện kí thứ 8)

Khởi viết truyện kí thứ tám này
vào lúc khoảng 07 giờ sáng,
ngày 17.11.2002 (13.10 Nh. ngọ, HB.2).
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 8 lúc 16 giờ kém 10 phút,
ngày 30.11.2002 (24.10 Nh. ngọ, HB.2).
Sữa chữa xong vào lúc 15 giờ 24 phút,
ngày 04.12.2002 (01.11 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN



(213) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 104.

(214) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 306 – 307.

(215) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 352.

(216) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 176 – 177.

(217) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 279 – 280.

(218) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 304.

(219) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 355 – 356.

(220) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 370.

(221) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 372 – 373.

(222) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 119.

(223) Chúng tôi chỉ căn cứ vào Đại Nam thực lục, chính biên, các tập có liên quan. Tất nhiên, không kể phần cuối tập 36 và hai tập 37, 38, trong đó có những lời nặng nề về Tôn Thất Thuyết sau cuộc Kinh đô quật khởi do Nguyễn Nhược Thị Bích viết thay Từ Dũ để quở trách, và trong ba tập ĐNTL. CB. đó, còn có dụ, cáo thị do Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ, khâm sứ Hector, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm viết, với những đoạn xuyên tạc, bôi nhọ về ông (và Nguyễn Văn Tường) một cách quá đáng. Xin xem thêm: Trần Xuân An, Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, bản in vi tính, 2002 (chưa có điều kiện xuất bản rộng rãi).

(224) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 396.

(225) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 179 – 180, 198, 201, 212 – 213.

(226) GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. TP. HCM. tái bản, 2001, tr. 327 – 358: Giai đoạn này, giai cấp tư sản tài chính (tư sản công nghiệp và tư sản ngân hàng) đang xúc tiến thành lập Ngân hàng Đông dương (Banque de L’Indochine). GS. Trần Văn Giàu cũng đã trích dẫn F. Engels với câu viết có hình tượng con đĩa hai vòi, nhằm phê phán giới chóp bu tại Pháp, đại diện chính cống của bộ phận tư sản tài chính của nước Pháp! Dương Kinh Quốc, VNNSKLS., sđd., tr. 173: Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập ngân hàng ấy vào ngày 21.01.1875 (Ất hợi). Theo tư liệu chuẩn cứ là ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 44 – 46: “Dân trong hạt [Phú Yên] là Lê Văn Lợi, năm trước tải lậu tiền đồng dị dạng, quan tỉnh ấy chiểu lệ tịch thu số tiền ấy và giam xét. Tên ấy vượt nhà giam, trốn đến cửa biển Thi Nại ở Bình Định nương nhờ viên lãnh sự Pháp. Viên ấy cho khai liều là quê ở Gia Định, rồi nhận là dân Tây [có quốc tịch Pháp], phải do viên lãnh sự ấy xét xử. [Việc ấy vua] đã chuẩn tư cho chủ suý Pháp [tại Gia Định], đợi chủ suý ấy xét định. [Đinh] Nho Quang không theo đợi, lại uỷ phái người đến cửa Thi Nại để bắt. Lãnh sự Pháp giải thoát cho Văn Lợi, [lại] đem đánh trói người được phái đi bắt ấy; rồi tư cho quan tỉnh Bình Định phải trả lại số tiền đã tịch thu và phạt [Đinh] Nho Quang 20 đồng bạc [!]”. Qua ba nguồn tư liệu trên, chúng tôi thấy có sự liên quan giữa quốc nạn tiền sềnh (tiền đồng dị dạng) với Ngân hàng Đông dương của tư sản tài chính Pháp. Phải chăng, qua tay bọn con buôn người Hoa, người Việt, Pháp tổ chức sản xuất tiền giả, phá giá đồng tiền nước ta? Hoặc chúng đã lợi dụng tình trạng tiền giả trước đó để nhảy vào tác động, làm lan tràn tiền giả, gây rối loạn thị trường, tiền tệ thêm? Đó là một trong những thủ đoạn của thực dân Pháp và tư sản ngân hàng Pháp?

(227) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 318.

(228) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 281 – 282.

(229) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 165 – 167.

(230) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 110 – 111.

(231) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 118.

(232) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 248.

(233) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 65 – 66.

(234) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 198 – 199.

(235) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 217 – 218.

(236) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 125 – 126.

(237) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 126 – 128.

(238) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 328, 329 – 330.

(239) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 267; ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 20, 64, 108 và 190 – 191.

(240) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 130.

(241) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 216.

(242) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 221 – 223.

(243) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 262.

(244) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 263 – 265.

(245) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 113, 131 – 132.

(246) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 364 – 365.

(247) TVTĐ., tập 2, 1996, tr. 166 - 167. Xin chú thích rõ hơn: Đó cũng là lúc Phạm Phú Thứ bị triệu về kinh để chịu trách phạt. Bấy giờ, vua Tự Đức không muốn các đại thần, đường quan giao du với cả Phạm Phú Thứ (đang bị giam lỏng để điều tra); nhà vua vẫn không muốn tin việc thực dân Pháp âm mưu xâm chiếm Bắc Kì lần thứ hai là có thật, lại cho là “hoang báo”, “nói hão tin càn”! Bài dụ trách phạt, vua Tự Đức viết: “… Vả người bầy tôi ắt phải có đạo [lí], dù muốn giao du rộng rãi, cũng phải chọn người mà chơi, muốn hiến kế sách tất phải cho có sự thực, chứ có thể nào nói nhiều nghe bậy, không có một mảy may nào là thực tế? Nay tự hỏi lòng mình, liệu như thế có an tâm không? Ngay đến như việc viên Bùi Viện, nếu không có người dẫn tiến, thì trẫm làm sao biết được? Vậy đã lầm lỡ một lần rồi, há lại nên để cho xảy ra lần nữa hay sao?…” (Thơ văn Tự Đức [3 tập], tập 2, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1996, tr. 167). Thời điểm Tự Đức viết bản dụ quở trách trên là ngày 24 tháng 02 năm Tự Đức thứ ba mươi bốn (1881). Chúng ta đã biết rằng, Bùi Viện không những kiếm tìm sự ủng hộ, viện trợ ở Mỹ (Hoa Kỳ, thời tổng thống Grant) mà còn thu phục các lực lượng hải tặc nước Thanh (Trung Hoa) vào đội quân vận tải do ông chỉ huy. Cuối cùng, Bùi Viện đã thất bại ở cả hai hướng. Khi Bùi Viện mất, còn để lại sự thâm thủng ngân quỹ của Nha Tuần tải đến vài ba chục vạn quan! (Xem: Phan Trần Chúc, sđd.).Tất nhiên, đối với các đại thần Viện – Bạc như trên đã nêu tên, sự mở hướng ngoại giao nhằm tìm lực lượng đối trọng với Pháp lúc này (1881), không thể là bọn hải tặc, mà chỉ có thể là Chiêu thương cục do Đường Đình Canh đại diện trong việc giao thiệp với nước ta…

(248) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 6.

(249) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1975, tr. 118 – 119.

Soạn xong phần chú thích
vào lúc 19 giờ 24 phút,
ngày 06.12. 2002 (03.11 Nh. ngọ HB.2).


TRẦN XUÂN AN



HẾT TỆP 14
(PHÂN ĐOẠN 6 TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Xin xem tiếp TỆP 15
(phân đoạn 7 truyện kí thứ 8)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”